Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chủng Tử: Một Số Nhận Định Về Tiến Trình Hình Thành

Thursday, January 23, 202519:16(View: 651)
Chủng Tử: Một Số Nhận Định Về Tiến Trình Hình Thành
Chủng Tử: Một Số Nhận Định Về Tiến Trình Hình Thành

Khánh Hoàng

hinhphat35

          Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.

           Có thể xem ‘Vô Minh’ (mắt xích thứ nhất của vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên) là yếu tố căn bảntrong sự hình thành tất cả các mắt xích còn lại. Từ ‘Vô Minh’ (thường được gọi là Bất Giác), chúng ta sẽ có động niệm. Từ niệm bị động, ‘Hành’ (mắt xích thứ hai của vòng chuỗi, ‘Hành’ là chùm niệm tưởng được kết nối liền lạc) được sinh khởi và phát triển tạo thành ‘Thức’ (mắt xích thứ ba của vòng chuỗi). ‘Thức’ khi bắt đầu một đời sống mới, phối hợp cùng tinh cha - huyết mẹ, sẽ tạo nên Danh Sắc (mắt xích thứ tư của vòng chuỗi Mười Hai Nhân DuyênDanh Sắc chính là con người mỗi chúng ta bao gồm cả thân và tâm: Danh là tâm bao gồmThọ, Tưởng, Hành, và Thức; Sắc là thân) và phát triển ra ‘Lục Nhập’ (mắt xích thứ năm của vòng chuỗi) chính là sáu giác quan: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý.

               Bắt đầu từ nơi năm căn của chúng ta (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; còn được gọi là ‘Tiền Ngũ Thức’ theo Duy Thức Học) được xem như là năm cánh cửa trổ ra từ ngôi nhà Chân Tâm để tiếp xúc và đón nhận trần cảnhthế giới bên ngoài vốn được phân biệt ra năm thứ gọi là năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc ) nên khiến phát sinh niệm khởi. Thí dụ như nơi mắt thấy được cảnh (trời đất, núi sông, rừng cây, hoa lá, con người, con vật, hay các vật thể khác) với đủ loại hình dáng (vuông - tròn- trơn láng - sần sùi...), kích thước (rộng to - nhỏ hẹp), màu sắc (xanh – vàng - đỏ - trắng - đen..), nơi tai nghe được âm thanh với đủ loại âm sắc (trầm - bổng), âm lượng (lớn - nhỏ), nơi mũi ngửi được mùi với đủ loại thơm - hôi - nồng - nhạt, nơi lưỡi nếm được vị với đủ thứ ngọt – bùi – chua – cay - đắng -nồng - nhạt, nơi thân nhận biết được đủ loại cảm giác (nóng - lạnh - trơn – rít - đau - khoái..). Đây là giai đoạn ‘Xúc’, mắt xích thứ sáu của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đây cũng thường được gọi là giai đoạn ‘Sơ Niệm’ trong nhà Thiền. Ở giai đoạn này, chúng ta chỉ mới có trực giác, chưa có phát sinh Ý phân biệt, tức là chưa có các Thọ UẩnTưởng UẩnHành Uẩn, và Thức Uẩn. Nơi đây, chúng ta đã có sự phân biệt nhưng sự phân biệt rất hồn nhiên, chưa có đủ độ đậm đặc để kết tụ thành ‘Uẩn’ (‘Uẩn’ là tích tụ, bồi đắp gọi tên theo bản chất của tiến trình hình thành; nó còn được gọi là ‘Ấm’ tức là ‘che đậy, làm cho bị khuất lấp , gọi tên theo dụng năng của nó là làm che khuất Chân Tâm). Đây có phải là điều ngài Huyền Giác đã đề cập đến khi ngài đến tham vấn Lục Tổ?

‘...Tổ nói: ‘Đại đức đã rõ được cái ý ‘Vô Sanh’.
Ngài Huyền Giác bạch: ‘Đã ‘Vô Sanh’ sao rằng có ý?’.
Tổ nói: ‘Nếu không ý, lấy chi phân biệt?’
Ngài Huyền Giác bạch: ‘Phân biệt cũng chẳng phải ý’.
Tổ khen: ‘Lành thay !..
.’ (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên).


           Tuy nhiêntâm thức con người bình thường ít ai có thể dừng ở giai đoạn tiếp xúcthuần túy này. Qua tiếp xúc giữa căn và cảnh, tâm thức chúng ta ở nơi mỗi căn sẽ bị cảnh trần lôi cuốn, níu kéo để khiến khởi lên một loạt các tưởng niệm phân biệt dần dà bồi đắp và đúc kết thành nghiệp thức mang tính cách đặc sắc, chuyên biệt cho từng cá nhân. Đây là giai đoạn bắt đầu hình thành và phát triển ‘Sở Niệm’. Hai từ ngữ ‘Sơ’ (của ‘Sơ Niệm’) và ‘Sở’ (của ‘Sở Niệm’) chỉ khác nhau ở nơi có dấu hỏi hay không có dấu hỏi, đã đánh dấu sự vận hành và chuyển biến của tâm thức, một sự chuyển biến có tính cách tha hương, ‘vong thân’. Như nếu ta thích màu xanh, ghét màu đỏ; ta sẽ dễ có sự vui vẻ, hớn hở khi gặp được màu xanh; và ngược lại, ta sẽ trở nên dễ cau cóbực bội khi gặp phải màu đỏ. Sự vui buồn theo màu sắc đã khiến Chân Tâm thanh tịnhtrong sáng thường hằng bị chao động, nhuốm màu mờ tối để biến thành tình thức xốc nổi, sanh diệt ...Đây là giai đoạn xuất hiện, hình thành của ‘Thọ’ và ‘Ái’, mắt xích thứ bảy và thứ tám của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đây cũng là ‘Thọ Uẩn’, nhân tố quan trọng đầu tiên trong tiến trình hình thành Chủng Tử. ‘Thọ’ quan trọng nhất, có sức mạnh chi phối nhiều nhất, cơ bản nhất (bản năng tiềm tàng) nơi mỗi con người chúng ta chính là ‘Lạc Thọ’ phát sinh từ sự xúc tiếp giới tính. Lạc thọ này được xem là mệnh lệnh thầm kín, khắc nghiệt của tự nhiên để duy trì, phát triển nòi giống nơi cõi Dục Giới.

           Sau khi được hình thành, Thọ Uẩn sẽ nhanh chóng phát triển nên Tưởng UẩnHành Uẩn, và Thức Uẩn tương ứng với giai đoạn ‘Thủ’ và giai đoạn ‘Hữu’, mắt xích thứ chín và mắt xích thứ mười của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đến đây, các loại chủng tử được hình thành. Trở lại thí dụ trên người thích màu xanh và gặp được một đóa hoa xanh, một loạt tưởng niệm sẽ được khởi lên nơi tâm thức như sau: (1) Ô kìa! một đóa hoa đẹp! (Đây là ‘Thọ’ phát sinh) (2) Hoa tên gì? Hoa này của ai, ở đâu mà có? (Tưởng UẩnHành UẩnThức Uẩn hiện khởi) (3) Hoa đẹp quá, nhìn ngắm hoa thích quá! Ta yêu hoa quá!(Đây là ‘Ái’ phát sinh) (4) Cần phải chiếm giữ nó (Đây là ‘Thủ’ phát sinh) (5) Tận hưởng và sống cùng với nó (Đây là giai đoạn ‘Hữu’ phát sinh) ... Vậy có thể thấy từ sự xúc chạm của hai pháp vô ngôn là đóa hoa và ánh (mắt) nhìn đã khiến tự động trỗi lên vô vàn ngữ ngôn thầm lặng nơi tâm thứcchúng ta; ‘Sơ Niệm’ là pháp vô sự nhưng chỉ một niệm bất giác đã trở nên ‘Sở Niệm’ với biết bao đa đoan của cuộc vay trả - trả vay. Chủng tử được hình thành sẽ được Mạt Na Thức(còn được gọi là Truyền Tống Thức, thức thứ bảy của Bát Thức Tâm Vương) đem cất vào kho tàng chủng tử là A Lại Da Thức (còn được gọi là Tàng Thức, thức thứ tám của Bát Thức Tâm Vương). Sau đó, khi có đủ duyên, chủng tử sẽ phát khởi sự sanh và diệt mới được gọi là ‘Sanh’ và ‘Lão Tử’ (mắt xích thứ mười một và mười hai của vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên).

            Như thế, chủng tử nơi tâm thức chúng ta chính là các hạt mầm, hạt mầm năng lượng. Loại năng lượng ở đây chính là năng luợng tâm linhnăng lượng của Thấy - Nghe - Hay - Biết (Kiến - Văn - Giác -Tri) được huân tập, kết tụ từ nhiều giai đoạn của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’, từ giai đoạn ‘Xúc’ đến các giai đoạn ‘Thọ’, ‘Ái’, ‘Thủ’, và ‘Hữu’. Năng lựccơ bản, nòng cốt cho tiến trình huân tập, kết tụ năng lượng tâm linh này chính là ‘chấp thủ’. Do nơi có lực ‘chấp thủ’, tâm thức chúng ta mới có chỗ bám víu để làm nền tảng hình thành, phát triển, và chuyển biến năng lượng tâm linh từ giai đoạn ‘Xúc’ đến các giai đoạn sau ‘Thọ’,’ Ái’, ‘Thủ’, và Hữu’ của vòng Mười Hai Nhân Duyên để kết thành các loại chủng tử.

              Sau khi xuất hiện ‘Ái’, ‘Thủ’, và ‘Hữu’, phiền não với nhiều dạng loại - mức độ khác nhau sẽ có cơ hội xuất hiện thêm để bảo hộ và giúp tăng trưởng các chủng tử. Trở lại thí dụvề đóa hoa đã nêu trên, một khi ta đã có tâm thức bị dắt dẫn đến các giai đoạn ‘Thủ’ và ‘Hữu’, tâm sở phiền não ‘Tham’ đã được hình thành. ‘Tham’ được Phật Đạo mệnh danh là một trong ba độc (Tham, Sân, Si), là một trong sáu Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến) và còn là một trong năm thứ Triền Cái (Tham, Sân, Thụy MiênTrạo HốiNghi Hoặc) vốn là các tâm sở làm che lấp, mờ đục, khuấy động, chao đảo Chân Tâm. Khi một phiền não đã được thành lập, nó sẽ là chỗ nương, là sức trớn cho các loại phiền não khác dễ dàng được thành lập tiếp theo. Lúc đó, ngoài phiền não vừa mới vừa được hình thành, phiền não có trước được phiền não có sau bồi đắp, điểm tô thêm khiến chủng tửphiền não ngày càng có nhiều hơn và ngày được kiên cố thêm, nặng nề thêm. Điều này khiến bảo đảm thêm cho sự khai hoa, trổ quả về sau của các chủng tử. Thí dụ khi ta đã cho đóa hoa xanh là đẹp và yêu quí rồi muốn giữ gìn nó (Tham), nếu có người khác có ý kiếnkhác và chê nó là không đẹp rồi muốn phá hủy nó, ta sẽ dễ dàng nổi giận (Sân) để khơi mào cuộc chiến đấu bảo vệ đóa hoa với người ấy. Nếu có một người khác, cùng một ý kiến với ta (cho là đóa hoa đẹp) và cũng muốn chiếm hữu nó, ta cũng sẽ dễ dàng nổi sân để khơi mào cuộc chiến đấu tranh dành đóa hoa với người này. Vậy một khi ‘Tham’ đã có, ‘Sân’ sẽ có theo như theo một qui trình dường như tự nhiên, tự động, và có sẵn từ muôn kiếp nào, nhưng thực ra chúng đã được dắt dẫn bởi các chủng tử có sẵn, tiềm ẩn sẵn nơi A Lại Da thức ở mỗi chúng ta. Tập hợp các chủng tử được gọi vắn tắt là ‘Nghiệp’, sự vận hành và tác động của các chủng tử được gọi là ‘Nghiệp Lực’.

             Như thế tác giả tạo ra các chủng tử chính là tâm thức chúng ta ở từng ngày, từng giờ, từng phút giây, từng sát na của đời sống. Mỗi chúng ta đã tạo ra chủng tử đặc sắc, chuyên biệt cho chính mình và đem cất chứa chúng vào nơi kho tàng A Lại Da thức. Từ nơi kho tàng nghiệp thức mênh mang không có ngằn mé này, chủng tử quyết định cuộc đời (thụ động) của mỗi chúng taPhật Đạo xác quyết chính chủng tử quyết định, chứ không do một thế lực thần linh nào quyết định ban phát hoặc trừng phạt chúng taKinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu nêu rõ: ‘Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe.‘
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh, tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẻ theo nghiệp kéo đến, như bóng theo hình.’

              Đến đây, qua chủng tử, ta có thể thấy rõ thêm được tính chất rất khoa học của nguyên lý luân hồi: ‘Nhẹ nổi, Nặng chìm’. Các tâm sở ác được xem là các chủng tử nặng. Duy Thức Học phân biệt có 26 món tâm sở ác bao gồm 6 Căn Bản Phiền Não đã nêu ở trên, và 20 món Tùy Phiền Não (20 món Tùy Phiền Não lại được chia ra ba loại là Tiểu Tùy có 10 món: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuồng, Siễm, Hại, và Kiêu; Trung Tùy có 2 món là Vô Tàm, và Vô Quí; Đại Tùy có 8 món là Trạo Cữ, Hôn TrầmBất TínGiải ĐãiPhóng DậtThất NiệmTán Loạn, và Bất Chánh Tri). Các tâm sở nặng này có khuynh hướng bị chìm xuống nên nơi đi về của chúng khó có thể là nơi trên các tầng trời cao mà dĩ nhiên sẽ là những cảnh giới thấp của 3 đường ác (Địa NgụcNgạ QuỉSúc Sanh). Trái lại, các tâm sở thiện được xem là các chủng tử nhẹ. Theo Duy Thức Học có 11 món tâm sở thiện là: Tín, Tàm, Quí, Vô ThamVô SânVô SiTinh TấnKhinh AnBất Phóng DậtHành Xả, và Bất Hại. Các tâm sở nhẹ có khuynh hướng di chuyển lên cao nên nơi đi về của chúng thường là những cảnh giới nhẹ nhàng hơn, cao cả hơn, đẹp đẽ hơn của ba đường thiện (Trời, Người, và A Tu La). Chính vì thế, Dục Giới với biết bao dạng loại tình và tưởng đan bện vào nhau dày đặc, cõi mà chúng ta đang có mặt, là cõi ‘nặng’ nhất so với hai cõi còn lại (Sắc GiớiVô Sắc Giới). Nếu áp dụng nguyên lý này vào đời sống thường nhật, ta cũng có thể nhận biết được sự khác biệt giữa nơi đi và nơi đến (trong kiếp sống này và các kiếp sống vị lai) của một người luôn giữ tâm ý điều hòa, vui vẻ và một người luôn bất mãnbực bội...

                Chủng Tử chính là hạt mầm đích thực của đời sống. Đây là loại hạt mầm không có hình tướng vì được cấu tạo từ nguồn năng lượng tâm linh do pha trộn giữa Chân Tâm (cái Thấy – Nghe - Hiểu - Biết tinh khôi) và những vọng tìnhvọng thức (cái Thấy – Nghe - Hiểu -Biết đã bị nhiễm bởi sáu trần, hình thành từ sự tiếp xúc giữa các căn và các trần cảnh). Vì là dạng năng lượng nên Chủng Tử không bị hủy hoại mà chỉ có thể được chuyển hóa qua các phương pháp tu tập hữu hiệu. Tu tập Phật Đạo chính là tiến trình trong đó mỗi chàng Cùng Tử chúng ta nhận chân được những nguồn năng lực vô hình nào đó đã đùn đẩy, xô kéo chàng vào con đường phiêu linh, lang thang rời xa cội nguồn, quê hương, bản quán. Để từ đó chàng có thể thấy ra con đường quy hồi cố quận, quay bước trở về tìm lại người cha Trưởng Giảnhận ra Trưởng Giả, tập làm Trưởng Giảtrở thành Trưởng Giả, và ...chính là Trưởng Giả! 
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 2192)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(View: 2446)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(View: 3043)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(View: 2998)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(View: 2535)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(View: 2084)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(View: 2381)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(View: 2678)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(View: 2498)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(View: 2531)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(View: 2902)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(View: 4632)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(View: 2903)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(View: 2107)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(View: 2492)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(View: 3710)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(View: 2876)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(View: 2752)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(View: 2650)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(View: 6380)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(View: 2743)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(View: 2717)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(View: 3020)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(View: 2901)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(View: 2728)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(View: 2645)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(View: 3815)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(View: 2684)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(View: 2671)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(View: 2527)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(View: 2466)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(View: 2871)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(View: 2745)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(View: 2507)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(View: 2719)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(View: 2563)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(View: 3497)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(View: 2570)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(View: 2636)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(View: 2879)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(View: 2930)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(View: 2949)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(View: 2561)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(View: 2764)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(View: 2279)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(View: 2997)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(View: 3873)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(View: 2613)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(View: 2994)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(View: 2815)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(View: 3023)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(View: 2754)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(View: 3065)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(View: 2704)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(View: 2547)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(View: 2973)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(View: 2834)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(View: 2651)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(View: 2533)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(View: 2279)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM