Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh hoa của Phật giáo Đại thừa

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10466)
Tinh hoa của Phật giáo Đại thừa

TINH HOA CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Thích Kiên Định

Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta. Phật tánh khi đã được hiển bày mầu nhiệmchói sáng thì cũng tợ như vừng hào quang chiếu diệu trong ngày Đản sanh được tôn trí trên những lễ đài cao nhất và thiêng liêng nhất cho thập phương bá tánh vãng lai chiêm ngưỡnglễ bái. Phật tánh ấy cũng là chất liệu bi trí toàn giác và linh hiển, vi diệumầu nhiệm đã được Āsaṅga (Vô Trước) trình bày trong Nhiếp Đại Thừa Luận. Nói về Phật tánh cũng ngụ ý trỏ đương thể ‘không tánh’ thường trụ trong Như Lai tạng,[1] một trong những danh xưng của A-lại-gia. Bản giác và tánh giác của chúng ta, không phải chỉ trong mỗi một ngày Đản sanh; vì nếu khi lễ Đản sanh qua đi, thì tánh giác cũng ngủ vùi, như đèn hoả châu vụt sáng trên khoảng không rồi tắt lịm, 364 ngày còn lại Phật tánh cũng bị bụi trần che khuất, thế giới của ‘ngũ ma’ lộng hành; như thế việc cung đón Phật đản thiếu đi những ý nghĩa trọng đạithiêng liêng. Vậy chẳng phải chua xót lắm hay sao? Để trợ duyên cho chúng ta khơi lại bản giác sống với tánh giác, đã có vô lượng pháp môn, như: công phu, lễ sám, niệm Phật, thiền hành, tu quán, v.v... cho mọi tầng lớp, hợp mọi căn cơ. Còn ở đây, Nhiếp Luận được cân nhắc như là tinh hoa của Phật giáo Đại thừa. Dĩ nhiên nó không phải là Phật tánh, nhưng chính chúng ta dụng nó làm phương tiện để phát huy nguồn tuệ giác; vì Phật tánh hay chân lý không phải là ngón tay chỉ trăng, cũng không phải là bổn luận này mà chỉ là phương tiện.

Vô số phương tiện là những lời Phật dạy đang còn trong Tam tạng giáo điển. Đức Thế Tôn tuy đã diệt độ, nhưng Pháp thân của Ngài vẫn thường hiện hữu trong tất cả chúng sanh. Pháp thân ở đây là một trong Tam thân Phật; vì nó vô tướng cho nên vô trụ; vì vô tướng cho nên hàng phàm phu không thể thấy được; hàng Nhị thừa thì ít lưu tâm để ý; còn hàng Tân học hay Sơ học Bồ-tát thì chỉ có khái niệm khi tỏ khi mờ, lúc ẩn lúc hiện, hoặc có thấy một phần nào nhưng chưa thấu đáo; chỉ có hàng Bồ-tát thượng căn thượng trí mới có thể thấy một cách rốt ráo rằng Pháp thân của Như Lai vẫn luôn an trú bên trong tạng thức[2]. Nếu là những Bồ-tát chơn chánh, luôn tinh tấn hành Thập độ để chứng nhập Thập địa, tận trừ Thập chướng thì mới có đủ năng lực chứng nhập Thập Chơn-như.[3] Chứng Thập Chơn-như cũng là địa bàn hoạt động, là cảnh giới hay trú xứ của chư Phật và của những Bồ-tát thượng thượng căn, thượng thượng trí. Đây nhấn mạnh đến nghĩa lý siêu việt của "vô trụ";[4] chính vì vô trụ, cho nên vô ngại; vì vô ngại cho nên ở bất kỳ nơi đâu, trong bất kỳ cảnh giới nào nó cũng thường hiện hữu. Đối với Báo thân của đức Phật, về lãnh vực ‘sự’, thì nó đã quyện vào thất đại[5] và đã trở thành khí thiêng ngút trời của xứ Kusinara trong lịch sử Ấn; còn Pháp thân (Dharmakāya) của Ngài, về lãnh vực ‘lý’, thì luôn có mặt trong tất cả các loài hữu tình từ vô lượng kiếp đến nay. Đây trỏ cho Phật tánh (Buddhatā) như đã được nói trong kinh Pháp Hoakinh Phạm Võng: "nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh".

Chừng hạ bán thế kỷ thứ năm trước CN, khi pháp âm của đức Thế Tôn đã đi vào thinh không, thì Pháp thân của Ngài dường như đã trở nên mờ nhạt trong ý niệm của những người theo Phật giáo Bộ phái. Nó chỉ bắt đầu vụt sáng trong lòng của những người theo Śarvāstivādas (Nhất Thiết Hữu Bộ), Śammitīyas (Chánh Lượng Bộ) và dần dần toả sáng trong tâm thức của những người theo Mahāsaṅghikas (Đại Chúng Bộ), rồi bừng sáng chói lọi trong khoảng thời kỳ Phật giáo Đại thừa (thế kỷ thứ I trước và sau CN), manh nha và hình thành, phát triển và cực thịnh. Đó là thời kỳ Chánh pháp, mà cả Aśvaghoṣa (Mã Minh, chừng 80 trước CN đến 100 sau CN) và Nāgārjuna (Long Thọ, 100-200; hoặc 150-250 sau CN) hai bậc Thánh tăng vô tiền khoáng hậu đã đóng góp vĩ đại cho Phật giáo Đại thừa.[6] Aśvaghoṣa (Mã Minh) và Nagārjuna (Long Thọ), cả hai ngài đã nghiễm nhiên trở thành những bậc Siêu Vĩ nhân trong những bậc vĩ nhân của thời kỳ này tại Ấn-độ. Phật giáo vẫn chói sáng gần ba thế kỷ, rồi trở nên nguôi ngoa hơn nửa thế kỷ thứ ba. Khí thiêng của Phật giáo Đại thừa đã bừng sáng trở lại chừng khoảng nửa sau của thế kỷ thứ 3, mà chói sáng nhất trong thế kỷ thứ tư. Đó là để nói "tinh hoa của Phật giáo Đại thừa" đã được phục hưng trong thời kỳ của ngài Maitreya (Di Lặc) và thật sự chói sáng nhất trong thế kỷ thứ tư; thời Tượng pháp mà Āsaṅga (Vô Trước, 310-390) và Vasubandhu (Thế Thân, 320-400) là hai bậc siêu vĩ nhân, nổi tiếng nhất và chói sáng nhất trong lịch sử Phật giáo Ấn-độ. Thời Tượng pháp ấy đã thật sự biểu hiện trong thế giới của Nhiếp Luận và nhiều tác phẩm như sẽ đề cập dưới đây của Āsaṅga, và nó cũng biểu hiện trong Triṁsikā vijñaptikārikā (Tam Thập Tụng Luận), Madhyānta-vibhāga-śāstra (Biện Trung Biện Luận), Mahāyāna-vijñaptiśāstra (Đại Thừa Duy Thức Luận) ... của Vasubandhu mà hôm nay chúng ta có đủ thiện duyên được nếm lại một phần nào hương vị giải thoát của ánh đạo vàng, thưởng thức lại thượng vị đề hồ của Chánh pháp và tắm gội trong ánh sáng của bi trí, trong pháp vị của cam lồ, của dòng suối pháp đã đang và sẽ mãi còn vang vọng trong Mahāyāna-saṃparigraha-śāstra (Nhiếp Đại thừa Luận) này.

Tác giả của Nhiếp Luận là Āsaṅga; Tàu phiên âm là A-tăng-già, với ý nghĩa tôn xưng là "Vô chướng ngại", một trong những người sáng lập phái Yogācāra (Du-già) của Phật giáo Đại thừa ở Ấn-độ. Ngài người puruṣa-pura, thuộc Tây Bắc Ấn, nước Gandhāra (Kiền-đà-la). Cụ thân sinh ngài là Kauśika (Kiều-thi-ca), một Quốc sư dòng Bà-la-môn, có ba anh em đều gọi là Vasubandhu (Thế Thân). Ban đầu Ngài xuất gia tu học theo phái Sarvāstivāda (Nhất-thiết-hữu Bộ). Ngày nọ, ngài tư duy và quán về nghĩa không mà chẳng có thể nhập được; ngay lúc ấy, ở phía trước có piṇḍola (Tần-đầu-la) từ phía đông Videha (Tỳ-đề-ha) đi đến vì ngài mà giảng nói cách quán nghĩa không của Tiểu thừa. Ban đầu vừa nghe qua liền ngộ nhập, song đối với nghĩa ‘không’ này ý vẫn chưa thoả mãn, theo Phật Quang Đại Từ Điển, ngài bèn dùng thần thông lên cung trời Đâu-suất để thọ giáo với Di-lặc Bồ-tát mong được chỉ dạy về cách quán ‘không’ của Đại thừa. Khi trở về thực hành đúng như thuyết đã học, ngài liền đạt được phương thức quán không ấy. Sau nhiều lần được Di-lặc Bồ-tát trao truyền giáo nghĩa sâu xa của Đại thừa, như: Yogācārabhūmiśāstra (Luận Du-già-sư Địa), Madhyānta-vibhāga-kārikā (Biện Trung Biên Luận Tụng) v.v... ngài bắt đầu thu nạp đồ chúng rồi tuyên thuyết về giáo nghĩa của bộ luận ấy cho họ. Nhờ xiển dương pháp môn Mahāyānayogācāra (Đại thừa Du-già) và pháp tướng của Đại thừa, mà đặc biệt nhất là toàn bộ tinh hoa của Phật giáo Đại thừa được thâu tóm trong Mahāyāna-saṁparigraha-śāstra (Nhiếp Đại thừa luận) đã được quảng bá khắp nơi. 

Ngoài ra, Ngài đã không ngừng phát huy giáo nghĩa Đại thừa trên nhiều lãnh vực khác nhau về tâm lý giáo dụctâm lý triết học Phật giáo bằng cách chú giải nghĩa lý trong Tam tạng mà nổi bậc nhất là trước tác nhiều bộ luận thuộc về pháp tướng Duy thức và Du-già tông. Mặt khác, Ngài đã khuyến hoá người sư đệ của mình, Vasubandhu[7] (Thế Thân) trở về với Phật giáo Đại thừa. Từ đây, cả hai đã trở thành đại biểu nổi tiếng nhất trong lịch sử tư tưởng pháp tướng duy thức tông và Du-già tông tại Ấn độ. Và cũng từ đây, thế kỷ thứ 4, bắt đầu khai sinh ra một kỷ nguyên mới, thời kỳ vàng son và chói sáng nhất, thời đại Tượng pháp trong lịch sử Phật giáo Đại thừa

Ngài Maitreya Bodhisattva (Bồ-tát Di Lặc), theo truyền thuyết, được cân nhắc như là Sơ Tổ của tông Duy thức, còn Āsaṅga và Vasubandhu chỉ là những người kế thừa. Āsaṅga và Vasubandhu, một mặt dựa vào hai kinh nền tảng của Duy thức: Sandhinirmocana (Giải Thâm Mật), Laṅkāvatāra (Lăng-già),[8] mặt khác đã sử dụng những bộ luận, như: Mahāyāna-śūtralaṅkāra (Đại thừa Lăng-già) Madhyānta-vibhāga (Biện Trung Biên) cũng như Yogācāra-bhūmi (Du-già Sư Địa) do Bồ-tát Maitreya đã thuyết, cùng với những tác phẩm trước tác và chú thích của mình, cả hai Āsaṅga và Vasubandhu đã không ngừng xiển dương cùng tột giáo nghĩa thâm áobí tạng của Như Lai và đã thật sự đưa trường phái này đến cực điểm của nó trong suốt thời sinh tiền của họ. Bởi sự tâm đắc qua lời dạy của bậc Thầy_Maitreya, Āsaṅga đã chủ trương mệnh danh cho trường phái của ngài là ‘Yogācāra’ (phái Du-già, hoặc Du-già Tông); trong khi đó ‘Vijñānavāda’ là một thuật ngữ khác được Vasubandhu đặt tên.[9]Yogācāra thiên trọng nhiều đến vấn đề thực hành; trong khi đó Vijñānavāda (phái Duy thức) nhấn mạnh đến những đặc trưng siêu hình thuộc về những lãnh vực tâm lýtâm lý triết học của Phật giáo. Đây cũng là tính chất đặc thù nhất của Duy thức tông, dù vẫn biết Duy thức đã được ngài Aśvaghoṣa (Mã Minh) hình thành nền tảng của Phật giáo Đại thừa bằng tác phẩm tiêu biểu: Mayāyāna-śraddhotpāda-śāstra (Đại Thừa Khởi Tín Luận), mà nó có nguồn gốc từ những kinh Đại thừa vừa nêu. 

Với pháp bảo sẵn có của đức Như Laitư tưởng được thụ giáo từ Maitreya cùng với khả năng siêu phàm vốn có của mình, ngài Āsaṅga đã trước tác rất nhiều tác phẩm vô cùng quan trọng cho cả Duy thức và Du-già tông. Ngoài tác phẩm nổi tiếng nhất và phổ biến nhất của ngài như đã nói, còn có 7 bộ luận quan trọng khác của ngài, là: (1) Prakaraṇarayavācā-śāstra (Hiển Dương Thánh Giáo Luận), 20 quyển, thời đường, Huyền Tráng dịch, Đại Chính [ĐC] 1602; (2) Prakaraṇarayavācā-śāstra (Hiển Dương Thánh Giáo Luận Thích), 1 quyển, thời Đường, Huyền Tráng dịch, ĐC 1603; (3) Vajracchedika-prajñā-pāramitā-śāstra (Năng Đoạn Kim-cang Bát-nhã Ba-la-mật Đa Luận Thích), 3 quyển, Thế Thân thích, thời Đường, Nghĩa Tịnh dịch, ĐC 1513; (4) Vajracchedika-prajñā-pāramitā-sūtra-śāstra (Kim-cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận Tụng), 1 quyển, thời Đường, Nghĩa Tịnh dịch, ĐC 1514; (5) Vajracchedika-prajñā-śāstra (Kim-cang Bát-nhã Luận), 2 quyển, thời Tuỳ, Bodhigupta (Đạt-ma Cấp-đa) dịch, ĐC 1510; (6) Thuận Trung Luận, hay Thuận Trung Luận Nghĩa Nhập Đại Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Sơ Phẩm Pháp Môn, 2 quyển, Nāgārjuna (Long Thọ Bồ-tát) tạo, Āsaṅga thích, thời Hậu Nguỵ, Cù-đàm Bát-nhã Lưu Chi (Prajñāruci) dịch, ĐC 1565; và (7) Lục Môn Giáo Thụ Tập Định Luận Tụng, 1 quyển, Āsaṅga tác, Bồ-tát Thế Thân thích, thời Đường, Nghĩa Tịnh dịch, ĐC 1607.[10] 

Nhiếp Luận được ra đời sau thời Phật giáo Đại thừa bị ngắt quãng khoảng nữa thế kỷ. Nhờ nội dung hàm súcthâm áo đang thâu tóm toàn bộ tinh hoa của Phật giáo Đại thừa trên nhiều lãnh vực khác nhau, cho nên nó đã thu hút đông đảo những đại Luận sư của Phật giáo nổi tiếng và những dịch giả uyên bác suốt những thế kỷ sau đó. Trước đó ngoài tác phẩm tiên phong Đại Thừa Khởi Tín Luận của Aśvaghoṣa, còn có Madhyamika(vāda) (trường phái Trung Quán) được Nāgārjuna sáng lập đã không ngừng xiển dương tột cùng tinh thần Bát-nhã xuyên qua Bát bất trong Trung Luận, và nó cũng đã được Āryadeva (Đề-bà), đệ tử của Nāgārjuna, kế thừa và phát huy chói sáng. Về sau, nó đã dần dần chuyển mình và hợp thành một thể thống nhất với Pháp tướng tông cùng chủ trương và nhấn mạnh đến svabhāva (tánh) của tất cả các pháp. Với tầm quan trọng và tư tưởng thâm áo của nó, Nhiếp Luận đã được nhiều vị đại Luận Sư phiên dịch và chú thích thành 7 tác phẩm khác nhau, như: (1) Nhiếp Đại Thừa Luận, Āsaṅga tác, 2 quyển, Hậu Nguỵ, Buddhaśānta (Phật-đà Phiến-đa) dịch năm 531, ĐC 1592; (2) Nhiếp Đại Thừa Luận, Āsaṅga tác, 3 quyển, thời Trần, Paramārtha (Chân Đế) dịch năm 563, ĐC 1593; (3) Nhiếp Đại Thừa Luận Bổn, Āsaṅga tác, 3 quyển, Huyền Trang dịch năm 648-9, ĐC 1594; (4) Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Vasubandhu (Thế Thân) thích, 15 quyển, thời Trần, Chân Đế dịch, ĐC 1595; (5) Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận, Thế Thân tạo, 10 quyển, thời Tuỳ, gồm nhiều Luận Sư, như: Gupta (Cấp Đa), Hành Củ.... dịch, Đ C 1596; (5) Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Thế Thân tạo, 10 quyển, thời Đường, Huyền Tráng dịch, ĐC 1597; và (7) Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Bồ-tát Vô Tánh tạo, 10 quyển, thời Đường, Huyền Tráng dịch, ĐC 1598. 

Đối với việc phiên dịch như những tác phẩm vừa nêu cho thấy rằng bộ Nhiếp Đại Thừa Luận của ngài Āsaṅga đã được Vasubandhu và những vị đại Luận sư Ấn-độ và Trung-hoa trước tác và chú thích thành nhiều bản khác nhau. 

Ở Trung-hoa, Nhiếp Đại Thừa Luận đã được ngài Paramārtha (Chân Đế), người sáng lập trường phái Kośa (Câu Xá), dịch sang Hoa ngữ (bản thứ 2 trong 7 bản trên) trở thành huyết mạch và làm nền tảng của phái Nhiếp Luận. Trường phái Nhiếp Luận, do ngài Chân Đế sáng lập, là người đi trước trường phái Duy thức tông tại Trung-hoa sau này.[11] 

Việt Nam, về tác phẩm Nhiếp Đại thừa Luận, hiện chúng ta chỉ biết một bản Việt dịch của Hoà Thượng Trí Quang với tựa đề "Nhiếp Luận". Bản này nghĩa lý được dịch rất thoáng, dễ hiểu; vì có sự đối chiếu, kê cứu và tham khảo cả bản sớ giải trọn bộ của ngài Mật Lâm đăng trong Hải Triều Âm, cùng với bản sớ giải phần đầu và phần cương yếu của ngài Thái Hư cũng như bản Nhiếp Đại Thừa Luận Giảng Ký của những vị Pháp sư, như: Ấn Thuận, Diễn Bồi, Diệu KhâmVăn Tuệ.[12]

Thông thường khi trước tác hoặc tạo Luận, phần lớn những vị Đại Luận Sư đã tinh thông cùng tột giáo nghĩa thâm áo của đức Phật, thẩm thấu rốt ráo bí tạng của Như Lai. Đây là điều tất yếu; vì nó bắt nguồn từ sự tín kính đức Thế Tônhạnh nguyện độ sanh với một hoài bão duy nhất là khiến cho giáo lý Phật đà luôn được duy trì và được quảng bá khắp nơi. Mục đích tạo luận này cốt để giúp cho những tầng lớp trí thức và hàng Nhị thừa nâng cao tầm trí giác với một tầm nhìn cao và sâu hơn. Để phát huy lý tưởngquả vị của Phật giáo Đại thừa mà không xa lời Phật dạy, những Đại Luận Sư thường viện dẫn Kinh tạng để chứng minh. Nếu các đề Kinh thường dụng "Pháp, Nhân, Dụ" để đặt tên, thì đề Luận thường cứ vào "Pháp" để đặt tên cho toàn bộ nội dung của nó. Cũng vậy, Nhiếp Đại Thừa Luận đã được ngài Āsaṅga dụng Pháp để đặt tên; nó chuyên tải và thâu tóm toàn bộ tinh hoa giáo nghĩa thâm áo của Phật giáo Đại thừa. Chẳng hạn, thuật ngữ Mahāyāna (The Great Vehicle) có nghĩa là Đại thừa (Cỗ xe lớn)[13] Saṃparigraha (Acceptance) có nghĩa là nhiếp, dung nhiếp, bao quát, tổng quát, thâu tóm. Śāstra (Treatise) có nghĩa là luận. Vì vậy Mahāyāna-saṃparigraha-śāstra (Treatise on Acceptance of the Great Vehicle) có nghĩa là Luận Nhiếp Đại Thừa, gọi tắt là Nhiếp Luận. 

Toàn bộ nội dung của Nhiếp Đại Thừa Luận này được tóm thâu trong ba vấn đề chính, là: "cảnh, hành và quả" mà chúng tổng quát cả mười sắc tướng thù thắnghiển thị đặc tính của mười lãnh vực khác nhau. Trong đó, "cảnh" bao gồm hai phần đầu; "hành", sáu phần kế tiếp; và "quả" là hai phần còn lại.

Trong hai phần đầu của "cảnh", phần thứ nhất nêu lên chỗ căn cứ, hoặc nơi nương tựa của A-lại-gia thức. Chỗ căn cứ hay nơi nương tựa của A-lại-gia ở đây tức là danh xưng của A-lại-gia. Nó có rất nhiều tên khác nhau, mỗi tên đóng một vai tròchức năng riêng của nó, như: tâm, ý, thức, A-đà-na, căn bản thức...[14] Phần thứ hai nêu lên sắc thái hay sự hoạt dụng của A-lại-gia thức, bao gồm cả tướng và tánh của A-lại-gia. Tướng A-lại-gia bao trùm cả tam thiên giới; còn tánh của nó chỉ có thể nhận biết qua ba tánh: thiện, ác và vô ký. Đối với pháp tướng duy thức thì có thể nhận biết qua ba tánh: Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thật. Y tha khởi là duyên sanh tánh, là thực tại tánh và cũng là đương thể không tánh. Nó là nhân duyên sanh khởi của vạn pháp, là ranh giới, là nhịp cầu nối liền giữa hàng phàm phu với biến kế sở chấp tánh và bậc Thánh với Viên thành thật tánh. Do đó, nơi Y tha khởi tánh vẫn tiềm tàng đủ cả Biến kế sở chấp tánh và Viên thành thật tánh. Tuy nhiên Y tha khởi nơi hàng phàm phu thì giống như viên ngọc quý đang ở trong chéo áo của người cùng tử; Y tha khởi nơi hàng Nhị thừa thì như người trèo lên núi báu mệt nhọc mà cụt hai tay không lấy được vật báu nào; Y tha khởi nơi hàng Sơ học và Tân học Bồ-tát như người vào đại dương, thấy báu đang ở đáy biển mà không có phương tiện để lấy; Y tha nơi hàng Bồ-tát thượng thượng cănvô tướng báu, tức là vô trụ nơi tướng báu, không trụ nơi sắc báu, thanh, hương, vị, xúc và pháp báu. 

Thông thường, sự hiện hữu của A-lại-gia chỉ trên bình diện sắc tướng hoặc danh xưng của nó; thế nhưng sự hoạt dụng của nó thu nhiếp toàn bộ tướng trạng của tam giới, cả thế và xuất thế gian. Với thế gian thì sự biểu hiện của thức này trên nhiều lãnh vực khác nhau, như: sự tác ý (nghiệp), sự sanh tạp nhiễm của loài hữu tình. Đặc biệt là sự khám phá để nhận biết được tự tánh bất biến của A-lại-gia trong từng loài hữu tình nói riêng và thế giới nói chung. Ngoài ra, A-lại-gia thức cũng còn được gọi là tạng thức, hay Như Lai tạng. Nói A-lại-gia thức hay Như Lai tạng thường hiện hữu và nhiếp cả hai lãnh vực: thế gianxuất thế gian. Hai lãnh vực này gồm: 1) Nghiệp riêng, theo kinh Lăng-nghiêm, gọi là ‘vọng kiến biệt nghiệp’, theo Thành Duy Thức Luận, gọi là ‘tình thế gian’, theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, gọi là ‘thần thức’, hay ‘thần hồn’, mà nói theo Suzuki là ‘linh hồn’ của tất cả loài hữu tình; và 2) Nghiệp chung, theo kinh Lăng-nghiêm, gọi là ‘vọng kiến đồng phận’, theo Thành Duy Thức Luận, gọi là ‘khí thế gian’, theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, được gọi là sự hình thành thế giới. Như vậy, nghiệp riêng = vọng kiến biệt nghiệp = tình thế gian = thần thức/hồn; còn nghiệp chung = vọng kiến đồng phận = khí thế gian = sự hình thành thế giới

Làm thế nào để biết tướng nào là giả, tướng nào là thật của A-lại-gia? Thật tướng của A-lại-gia phải chăng là thật tại tướng của các pháp và tổng nhiếp cả loài hữu tình? Quan điểm này, nếu đúng, thì sẽ đối lập lại với chủ trương của Duy thức tông; vì Vasubandhu đã nói: "Do giả thuyết ngã pháp, hữu chủng chủng tướng chuyển" đó ư? Nếu khi các thứ tướng chuyển, thì làm sao để biết được những tướng nào là đồng với dị, vọng với chơn, hư với thật? Lại nữa, nếu là thật tướng, thì ngay khi tướng chuyển, những tướng ấy đã thành giả tướng ư? Vậy thì làm sao gọi nó là thật tướng? Vô lẽ duy thức tông nói sai ư? Nếu sai, thì trái với Thánh giáo. Vậy lý đáng duy thức tông không nên quảng bá, nhưng thật tế thì ngược lại. Nếu không thì làm sao Nhiếp luận này lại truyền đến chúng ta! 

Vậy phải chăng "hữu chủng chủng tướng chuyển" là thật tướng của các pháp, và cũng là thật tướng của thức A-lại-gia? Trong khi đó, Saddharmapuṇḍarīkasūtra (kinh Pháp Hoa) đã chỉ bày thật tướng ấy bằng thập như thị, tức là "như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh bình đẳng" rồi lại khẳng định: "Thị pháp trụ, pháp vị; thế gian tướng thường trụ". Trái lại, Duy thức tông thì cho rằng "hữu chủng chủng tướng chuyển". Vô lẽ Duy thức tôngkinh Pháp Hoa trái nhau. Nếu trái nhau thì sao có thể được gọi là Thánh giáo? Nếu không mâu thuẫnđối lập nhau, thì vô lẽ "tướng chuyển" cũng là "thật tướng"? Lại nữa, nếu là "thật tại tướng", thì có thể nhận biết được tánh của nó; còn khi "tướng chuyển" thì làm sao nhận ra được tánh của nó? Vô lẽ tướng chuyển ấy không có tự tánh? Như vậy, phải chăng là "thật tại tướng" và "tướng chuyển" trái nhau? Vì "thật tướng" thì có tánh; còn khi "tướng chuyển" thì tánh cũng chuyển ư? Vì tất cả các pháp đều do duyên sanh, cho nên không có thật tánh, như trong kinh Pháp Hoa nói: "Chư Phật lưỡng túc tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa". Thật ra "vô tánh" của Pháp Hoagiao điểm trên cùng một tầng số của Tam vô tánh: Lakṣaṇa-nihsvabhavatā (Tướng vô tánh), Utpattinihsvabhavatā (Sanh vô tánh) và Paramarthanihsvabhavatā (Thắng nghĩa vô tánh) trong pháp tướng duy thức.

Như vậy, nếu không liễu tri hai tướng thế giới cùng với hữu tình, vậy sao rõ biết cả hai tướng đó trong A-lại-gia? Bởi chính thức này dung nhiếp cả hai: thế giới muôn màu cùng với chúng sanh vô số. Cả hai tướng ấy cũng đều là tướng, tướng đại tướng tiểu, tướng vọng tướng chơn, tướng đồng tướng dị, tướng sinh tướng diệt. Nhưng khi tướng diệt, tánh cũng diệt ư? Vậy lúc tướng sanh, tánh cũng sanh ư? Tướng có chơn vọng, lại còn sanh diệt, tánh không chơn vọng, nào có sanh diệt. Vô lẽ tánh tướng, hai thứ dị biệt? Vậy thì làm sao để biết được tướng, để thấy được tánh của A-lại-gia? Tướng đã chưa tường thì sao rõ tánh? Nên biết, tướng dị tánh đồng, tướng tánh dung thông; tướng vọng tánh chơn, hỗ tương dung nhiếp; tướng dụng tuỳ duyên, tánh thể bất biến

Tánh thể bất biến tức là một cách diễn đạt khác của đương thể không tánh Như Lai tạng. Chẳng hạn, khi nhĩ căn duyên với thanh trần tạo thành nhĩ thức, nếu chấp chặt vào nhĩ thức mà không như lý tác ý, thì vọng tưởng điên đảo khởi, nghiệp thức có mặt; từ đây sự trầm luân trong tứ sanh lục đạo vẫn tiếp diễn, cửa ngõ luân hồi sanh-diệt-và-tái-sanh mở ra. Trái lại, ngay khi nhĩ thức có mặt, nếu như lý tác ýtư duy xuyên qua nền tảng của Chánh kiến_ ngay lúc ấy nhĩ thức không có mặt và nó tự động tiêu diệt_ thì cái nghe biến thành cái tánh nghe. Khi cái tánh nghe thật sự hiện hữu, thì nhân luân hồi dứt, không còn tương tục

Lại nữa, cái tánh nghe chỉ là sự tiếp cận với, sắp thể nhập vào cái thể tánh trạm nhiên ấy, chứ chưa thật sự thể nhập. Song nếu cứ huân tập mãi cái tánh nghe như thế thì chắc hẳn sẽ được thể nhập. Vì cái tánh nghe vừa mới được phát hiện đó chỉ là cái ‘thỉ giác’; còn cái thể tánh trạm nhiên của cái tánh nghe ấy mới chính là cái ‘bản giác’. Đặc biệt, khi cái tánh nghe_ nó được huân tập thuần thục và chín mùi_thể nhập vào cái thể tánh trạm nhiên của nó, thì cũng chính là lúc nó trở thành viên dung vô ngại với các tánh khác; đó là sự diệu dụng của lục căn viên thông bất ly đương thể không tánh Như Lai tạng

Khi đã tường tận sắc tướng cùng với hoạt dụng của A-lại-gia, vậy khổ đau nơi cõi ta-bà làm sao giải thoát? Nếu học cho biết, thì đồng thế gian; nào liên quan gì đến chuyện sanh tử, tận diệt khổ đau. Do đó, tam tuệ luôn được vận dụng trên nền tảng của chánh kiếnchánh tư duy, để thấy được tướng thiên biến vạn hoá trong A-lại-gia. Thấy tướng biết dụng, tướng hiện muôn thứ, thảy đều bắt nguồn vọng kiến sai khác nơi từ bản ngã; vọng thức phân biệt là gốc sanh tử luân hồi tái sanh trầm luân khốn khổ. 

Lại nữa, muốn chứng ngộthể nhập duy thức tánh trước hết Bồ-tát phải tri tường thiện xão về nhân duyên, hay nguyên lý duyên sanh; vì ‘ai thấy được lý duyên sanh tức là thấy được pháp’; và ‘ai thấy được duyên sanh thật tại tính của các pháp, thì có thể thấy được Phật’. Song muốn thấy biết rốt ráoduyên sanh, phải tu tập Lục độ Ba-la-mật; vì tu Lục độ Ba-la-mật cần phải vận dụng "phương tiện", phải phát "hạnh nguyện", hay "đại nguyện", phải có "năng lực" thiền-định và phải có "trí".[15] Bồ-tát phải luôn trau dưỡng và làm tăng thượng Giới, Định và Tuệ thì mới có thể đạt đến sự "chuyển y", có thể tiếp cận và có đủ công năng thể nhập vào duy thức tánh, tức là pháp thân, là Như Lai tạng tâm, là đương thể không tánh trong Như Lai tạng. Diệu dụng của "chuyển y" còn được gọi là pháp thân.[16] Nói cách khác, khi đã đạt đến "chuyển y" tức là đạt đến sự vi diệumầu nhiệm của "ngũ phần pháp thân". Ngũ phần pháp thân là sự hội tụ linh hiển của bốn pháp "thường, lạc, ngã, tịnh" xuyên qua "Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ" trên nền tảng của Chánh kiếnChánh tư duy; vì Tam tuệ đã có đủ cả ‘tín, giải’ và Tam vô lậu học (Giới, Định và Tuệ). Ngũ phần pháp thân, theo Du-già khoa, còn được gọi là ngũ phần hương: giới, định, tuệ, giải thoátgiải thoát tri kiến. Giải thoátgiải thoát tri kiến trong Nikaya gọi là tâm giải thoáttuệ giải thoát. Đối với những Bồ-tát thượng thượng căn một khi đã thật sự chứng đắc ngũ phần pháp thân tức cũng là sự hội nhập đầy đủ Tam thân. Tam thânquả vị thù thắng trong bổn luận này. Rốt ráo và cùng tột của Tam thân chính là quả vị Vô thượng Bồ-đề của đức Như Lai

Nếu mỗi chúng ta tinh tấn tu tậpthành tựu viên mãn một phần nào trong ngũ phần pháp thân để dâng cúng đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong ngày Đản sanh thì có rất nhiều ý nghĩa và trở nên vô cùng thiêng liêngmầu nhiệm. Đón mừng Phật đảndâng hương ngũ phần pháp thân lên cúng thập phương tam thế Phật, Bồ-tát Thánh Tăng, Hộ Pháp Long Thiên nguyện cùng pháp giới chúng sanh cùng là bạn pháp, đồng thành Phật đạo.

[1]Vấn đề này đã được đề cập ở quyển thứ tư trong Śūraṁgamasūtra (kinh Lăng-nghiêm). 

[2] Tạng thức còn được gọi là Tathāgatagārbha (Như Lai tạng). Nó cũng được mệnh danh là Pháp thân thường trụ trong Tam thân Phật (Pháp thân, Ứng thânBiến hoá thân). Nói khác đi, Pháp thân thường trụ của Như Lai ở đây cũng chính là Như Lai tạng, mà nó được đề cập trong Laṅkāvatāra-sūtra (Kinh Lăng-già), trong Śrīmāla-sūtra (Kinh Thắng Man); vì Tạng thức cũng còn được gọi là Ālaya-vijñāna (A-lại-gia) hay Ādāna-vijñāna (A-đà-na) như đã được nêu trong Sandhinirmocana-sūtra (Kinh Giải Thâm Mật), Śūraṁgama-sūtra (kinh Lăng-nghiêm), và trong nhiều bộ luận khác, như: Mayāyāna-śraddhotpāda-śāstra (Đại Thừa Khởi Tín Luận), Ratnagotra-śāstra (Bảo Tánh Luận)... 

[3] Đây chính là quả vị cứu cánh rốt ráo của Phật giáo Đại thừa. Do không gian có hạn không tiện trình bày chi tiết. Xem chi tiết thế nào là Thập địa, Thập độ, Thập chướng, Thập Chơn-như đã được trình bày trong Thành Duy Thức Luận, do HT. Thích Thiện Siêu (sách cũ), Viện Nghiên Cứu Phật Học VN, 1996, tr. 428-455. 

[4] Nói về nghĩa lý siêu việt của "vô trụ" thì chúng ta có thể sánh với nghĩa lý của câu: "ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" như đã đề cập trong kinh Kim-cang. Không trụ vào bất kỳ cảnh giới nào mà sanh tâm của mình; nói khác đi, không nên trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp mà sanh tâm của mình, thì đồng nghĩa với tư tưởng thiền học: “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền), một trong bốn câu kệ trong bài "Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông

[5] Chúng là địa đại, thuỷ đại, hoả đại, phong đại, không đại, thức đại và kiến đại.

[6] Hai bậc Danh Tăng chói sáng nhất trong công cuộc khai sinh và lập nền tảng cho Phật giáo Đại thừa trong thời kỳ ban đầu, đó là thời Chánh pháp, theo ngài Huyền Trang, là hai trong bốn mặt trời chói sáng nhất của Ấn-độ. Bốn mặt trời là ngụ ý chỉ cho bốn vị Thánh Tăng siêu phàm vô tiền khoáng hậu, đó là: Aśvaghoṣa (Mã Minh), Deva (Đề-bà), Nāgārjuna (Long Thọ) và Kumāralabdha/Kumāralāta (Cưu-ma-la-đa). Xem Winternitz, M., History of Indian Literature, Vol. II, tr. 258 và Footnote cùng trang. 

[7] Ban đầu Vasubandhu theo phái Sautrāṇtika (Kinh Lượng Bộ), bấy giờ ngài đã không ngại công kích Đại thừa và chủ trương cũng giống như những người theo Sautrāṇtika rằng chỉ có kinh văn mới đích thực là lời Phật dạy, mà không chấp nhận những luận tạng khác. Về sau Ngài chuyển sang phái Śarvāstivāda (Nhất Thiết Hữu Bộ) và từ đây chính Ngài đã được Āsaṅga khuyến hoácuối cùng quay về với Đại thừa. Điều này đã được đề cập trong cuốn “Indian Philosophy" của A.B. Keit, song chúng ta ít thấy những nơi khác nói " của A.B. Keit, song chúng ta ít thấy những nơi khác nói đến.

, Vol. II, tr. 258 và Footnote cùng trang. 

[8] Ngoài hai kinh vừa nêu, còn dựa vào một phần lớn trong Sūraṁgāma (Lăng-nghiêm). Bởi kinh này tổng hợp cả tam tạng: Kinh, Luật và Luận; do đó, nó không được xem như một tác phẩm thuần tuý duy thức như trong Sandhinirmocana (Giải Thâm Mật) và Laṅkāvatāra (Lăng-già). Ngoài ra, ngài còn dựa vào một phần trong Āgamasūtra (kinh A-hàm). 

[9] Bapat, P.V., 2.500 Years of Buddhism, Publications Division, New Delhi, 1997, tr. 108.

[10] Ngoài những tác phẩm vừa nêu, Phật Quang Đại Từ Điển còn cho rằng Mahāyānābhidharmasamuccaya-śāstra (Đại thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp Tập Luận), 16 quyển, là do ngài Vô Trước Bồ-tát tạo, nhưng có lẽ đây là sự nhầm lẫn. Tác phẩm này do ngài An Huệ nhữu (pha trộn), thời Đường, Huyền Tráng dịch, ĐC 31_1606.

[11] Xem Takakusu, Junjirō, The Essential of Buddhist Philosophy, Motilal Banarsidass, Delhi, 1998, tr. 84. 

[12] Xem Nhiếp Luận, HT. Trí Quang dịch, XN in Gia Định, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr. 34.

, Motilal Banarsidass, Delhi, 1998, tr. 84. 

[13] Nguồn gốc của thuật ngữ Mahāyāna này chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ I trước Công Nguyên (CN) và thế kỷ thứ I sau CN. Mục đích của thuật ngữ này xuất hiện là để nhấn mạnh đến sự xuất hiện của tam tạng giáo điển được viết bằng tiếng Buddhist Saṅskrit và Buddhist Hybrid Saṅskrit (Saṅskrit Phật giáo và Saṅskrit Pha trộn của Phật giáo), mà hầu hết những tác phẩm này đều bắt đầu cùng thời điểm Phật giáo Đại thừa manh nha, phát triển và thịnh hành. Lại nữa, thuật ngữ Mahāyāna được cho ra đời là để phân biệt với thuật ngữ Hīnayāna (the Small Vehicle) _ Tiểu thừa. Nhưng phân biệt trên lãnh vực ngôn ngữ giữa Saṅskrit và Pāli; vì hệ thống Bắc tạng hay Bắc truyền như Tam tạng giáo điển Đại thừa của Nepal, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam... đều bắt nguồn từ tiếng Saṅskrit. Trái lại, hệ thống Nam tạng hay Nam truyền như Tam tạng giáo điển của Ceylon (Tích-lan), Thái Lan, Lào, Campuchia... đều bắt nguồn từ ngôn ngữ Pali. Nhưng trên thực tế, cả Đại thừaTiểu thừa chỉ là phương tiện để phân biệt hai tạng kinh này, chứ trong thời sinh tiền của đức Thế Tôn, khi Ngài thuyết pháp cho mọi tầng lớp chỉ quán căn cơ của họ cao hay thấp để thuyết, chứ không có kinh nào được gọi là Đại thừa hay Tiểu thừa cả.

[14] Vì không gian có hạn, vả lại danh xưng của A-lại-gia được gọi bằng nhiêù tên khác nhau, nếu chỉ liệt kêgiải thích thì ngại rườm rà và dài dòng, cho nên phần này ở đây không đề cập.

[15] Trí tiếng phạn là Jñāna, khác với trí tuệ: Prajñā; trí ở đây tức chỉ cho bốn trí: Đại viên cảnh trí (Mahādarśana-jñāna), Bình đẳng tánh trí (Samanta-jñāna), Diệu quan sát trí (Pratyaveksana-jñāna), và Thành sở tác trí (Kṛtyanusthana-jñāna). Đây là bốn nguồn pháp nhũ, bốn suối cam lộ pháp vị được qui tụ lại từ sự thanh lọc thuần tuý nghiêm tịnh của tám thức: A-lại-gia thức (ālayavijñāna), Mạt-na thức (Manas-vijñāna) và Tiền lục thức (Pravṛttivijñāna) tức là thức thứ sáu và năm thức giác quan.

[16] Chuyển y (āsrayaparavṛtti) còn được gọi là Pháp thân. Tướng của chuyển y là sự tu tập chín mùi Thập địaLục độ Ba-la-mật. Nhờ xa lìa tất cả công đức chuyển y làm tướng, và nhờ nghe và huân tập bốn pháp mà thành tựu. Bốn pháp là 1) Tín vui Đại thừahạt giống đại tịnh; 2) Bát-nhã Ba-la-mậthạt giống đại ngã; 3) Hư không hay tam-muội là hạt giống đại lạc; và 4) đai bi là hạt giống đại thường. Thường, lạc, ngã và tịnh là bốn đức của pháp thân. Nghe huân tập và bốn pháp này là những hạt giống của bốn đức. Đại Chính 1595cb.

Thích Kiên Định (Nội san Liễu Quán - 07)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14452)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14170)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39787)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15332)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13903)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13946)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37401)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40104)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14662)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13832)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42678)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37291)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11793)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22582)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12532)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12588)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13082)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13129)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17297)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33303)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14857)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11072)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12481)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11981)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11967)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13168)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51324)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12402)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6639)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13145)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13351)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30750)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19424)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12505)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14786)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13218)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13226)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30757)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12064)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11855)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12754)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31955)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11806)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11768)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10461)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11577)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9658)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9684)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10013)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35470)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10173)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10120)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10066)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9692)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27869)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15554)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9879)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13699)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9870)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9726)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18373)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12061)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9601)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9718)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8735)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8938)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8442)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11503)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31791)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12362)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13346)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8854)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9469)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11963)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9256)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9107)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9707)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29406)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9101)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9125)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33313)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8453)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30672)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32326)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9948)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27151)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8472)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19270)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13044)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant