KHO TÀNG CÁC GIÁO HUẤNSIÊU VIỆT Tác giả: Đại sư Orgyen Kusum Lingpa, Liên Hoa dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
PHẦN II: BA LỜI ĐÁNH VÀO ĐIỂM TRỌNG YẾU
Giáo huấnđặc biệt của Khepa Shri Gyalpo
CHƯƠNG 5: ĐIỂM TRỌNG YẾU THỨ BA: SỰ XÁC TÍN TRONG GIẢI THOÁT
Chủ đềchúng ta đang thảo luận là tịnh quang thừa của Đại Viên Mãn
Nying-Thig (Tâm Yếu). Bậc Thầy của con đường sau xa này là Đức Phật trong hiển lộPháp thân của Ngài là Samantabhadra (Phổ Hiền), Đức Phậtnguyên thủy, đấng đã hiển lộ mạn-đà-la trí tuệnguyên thủy của sự biểu lộPháp thân.
Giáo lý về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu này có liên quan tới cái thấy,
thiền định và hành động. Chúng tương ứng với danh xưng của ba bậc nắm giữ dòng truyền thừa vĩ đại. Cái thấy là Longchen Rabjam, “sự bao la vô hạn vĩ đại”. Thiền định là Khyentse Ozer, “các tia sáng của sự trí tuệ và tình thương”. Hành động của Gyalwe Nyugu, “trưởng tử của các đấng Chiến Thắng”. Điểm trọng yếu thứ nhất là nhận rabản tánh của các bạn. Điểm thứ hai là xác quyết trên một điều.
Bây giờ chúng ta bắt đầu với điểm thứ ba. Điểm này liên quan tới hành động và tương ứng với danh xưng Gyalwe Nyugu, “trưởng tử của các đấng Chiến Thắng”. Cách thức mà các bạn nên thực hành là an trụ trong sự tỉnh
giác về ba điểm giải thoátvọng tưởng.
Điểm thứ nhất là nhận ragiác tánh nội tại chính là bản tánh của bạn. Việc nhận rabản tánh của bạn cũng giống như nhận ra một người quen biết
cũ mà các bạn đã rất lâu không gặp. Đó là một sự nhận rahiển nhiên.
Điểm thứ hai, an trú mà không có bất kỳ bận tâm nào tới lợi hay hại khi các bạn ngơi nghỉ trong giác tánh nội tại. Điều này giống như kẻ trộm vào một căn nhà trống và nhận thấy không có gì để trộm cắp, và vì thế không có lợi cũng không có hại.
Điểm thứ ba để giải thoátvọng tưởng là tương tự như con rắn tự duỗi mình ra một cách tự nhiên. Một yogin ngoại hạng khi duy trì cái thấy theo cách này sẽ không bao giờ rơi vào cạm bẫy của mối bận tâm đối với lợi hay hại. Tuy nhiên, lúc ban đầu, trước khi các bạn đạt tới cấp độ đó, các bạn phải nhận ra các vọng tưởng. Việc đơn thuầnnhận ra chúng cũng giống như con rắn tự duỗi mình ra.
Với ba cách giải thoát này, ta có thể giải thoát các vọng tưởng một cách
phù hợp. Có một so sánh tương đồng với sự thiềnđịnh khôngđúng đắn: ta
muốn tránh ánh nắngmặt trời và vào nghỉ trong một bóng cây, rồi lại đứng dậy và có thể lại quay vào nghỉ trong bóng mát. Các bạn đừng thiền định theo cách này, bởi các bạn sẽ không đối mặt với tham và sân, ưa thích và ghét bỏ bằng cách tiếp cận đúng đắn và các bạn sẽ không thể chiến thắng chúng.
Vì các hiện tượng phức hợp được đặt nền trên sự vô minh hay thiếu tỉnh giác mà chúng ta đã lang thang vô tậntrong vòngsinh tử. Bất kỳ cố gắng
nào để trở nên thoải mái bằng cách tìm cầu những gì ưa thích và tránh né những điều ghét bỏ, hoặc bằng việc theo đuổi bất kỳ điều gì xuất hiện, sẽ chỉ kéo dài sự bất lực của bạn trong việc hộ trì sự nhận biết rigpa. Các bạn cần làm việc với ba phương thức để giải thoát các vọng tưởng, vốn là những gì các bạn kinh nghiệm như những bông tuyết rơi trên
một tảng đá cháy nóng, lập tức tan ra, hoặc như những gì bạn vồ vập lấy
như con kên kên vồ chụp một con chim nhỏ. Các bạn cần giữ gìngiáo lý về tánh giác để có thể kinh nghiệm các tư tưởngphát khởi và được giải thoát một cách đồng thời. Đây là cách mà truyền thống Nying-Thig thực hànhgiáo lý Dzogchen.
Có những lúc tâm thức tràn đầy sự tham luyến rất mạnh mẽ, sự mãnh liệt tiềm ẩn của các biến cốtâm lý thứ yếu, nó áp đảosự thiền định. Nếu các
bạn tự cho phép mình đi theo những tư tưởng này trong thiền định thì các bạn sẽ tích tập nhiều thêm nữa các nguyên nhân cho vòng sinh tử. Nếu
các bạn cho phéptâm thức niệm tưởng phàm tục này chiến thắng các bạn, thì các bạn đang tích tập các dấu vết nghiệp trên laya (a-lại-da thức), cấp độ tâm thức nền tảng của kinh nghiệm thông thường. Và đây chính là những gì các bạn mang theo mình như hành trang đi tới những đời sau. Lệ thuộc vào những tập khí đó, các bạn sẽ có những khuynh hướng chín muồitrong đời này và những đời tương lai. Vì thế các bạn phải thận trọng.
Có một so sánh tương đồng với việc vẽ hình trên nước. Hình vẽ trên nước giống như sự phát khởi của các vọng tưởng; còn nước thì giống như giác tánh nội tại rigpa. Điều này được gọi là trạng thái tự giải thoát xảy ra
một cách tự nhiên. Bất kỳ vọng tưởng nào xuất hiện cần được xem như những hình vẽ trên nước: chúng xuất hiện từ nước và tan biến lại trong nước. Chúng hoàn toàn không thể sờ mó được. Mọi vọng tưởngxuất hiện từ rigpa tan biến trở lại vào rigpa, và khoảnh khắc đó chúng takinh nghiệm
sự tự giải thoát xảy ra một cách tự nhiên.
Bất kỳ sự hình thành tư tưởng nào khởi sinh từ rigpa phải được xem nhưthực phẩm tươi ngon cho giác tánh trống không, vì cho dù là loại tư tưởng nào cũng đều là biểu lộ của Pháp thân. Đó là sự phô diễn của Pháp thân, vốn không dấu vết và tự do một cách tự nhiên. Chúng tatìm thấy cách diễn cảm “A La La” trong bản văn gốc. Đây là sự biểu lộngạc nhiên hay kỳ diệu. Trong trường hợp này, sự ngạc nhiên phải thực hiện với nhận
thức bất ngờ rằng thậm chí các vọng tưởng cũng là một biểu lộ của Pháp thân.
Là một hành giảbình thường, do khuynh hướng mạnh mẽ này bị khuynh loát bởi sự giam cầm của các tích tập nghiệp và sự hiện diện của các tích tập
này, chúng ta có thể cho rằng ta phải kiềm hãm các tư tưởng và hoàn thành điều gì đó. Vì thế chúng ta bị vướng mắc trong tiến trình “sản sinh cái gì đó” để tiệt trừ mọi tập quán đã được tích tập. Đừng để cho những tình huống này chế ngự. Thay vào đó, chỉ đơn giản ghi nhớ tính cách tự giải thoát xảy ra một cách tự nhiên này. Khi các ý niệmphát khởi, chúng tự giải thoát nếu các bạn hiểu rõ ba cách thức giải thoát. Sự nhận thức cũng giống như nhân ra một người quen đã lâu không gặp trong một đám đông. Các tư tưởng tự giải thoát trong sự nhận thức đó.
Một cách khác là các bạn nhận thức rằng chúng không có lợi hay có hại. Việc nhận thức rằng không có lợi hay có hại cũng giống như một tên trộm vội vã vào một căn nhà rồi nhận ra là nó trống không và không có gì để lấy trộm.
Các tư tưởng cũng có thể tự giải thoát như một con rắn tự duỗi mình ra. Chỉ cần thư giãn và biết rằng đây là giáo huấn cốt tủy quan trọng nhất. Điều này tách Dzogchen khỏi các con đường khác, gồm cả Trung quán và Mahamudra (Đại Ấn). Đây là giáo lý Dzogchen cao tột nhất.
Có những cấp bậc thiền định khác đưa ta tới những mức độ cao hơn trong Sắc giới và Vô sắc giới, nhưng những cách thiền định đó cũng giống như sữa hay bơ đã bị hỏng, vì chúng là những trệch hướng đối với con đường đi tới sự thiền định chân thật. Bản tánh của tánh Không là Pháp thân và sự thiền định là thiền định của sự ngơi nghỉ trong bản tánh của thực tại
đúng như nó đang hiện hữu. Đây không phải là kiểu thiền định phân tích.
Đây là cách thức mọi khía cạnh của nghịch cảnh được đưa vào con đường để ngăn cản bất kỳ sự lạc lối nào do nỗ lựcphân biệt giữa xấu và tốt, cần thiết và không cần thiết. Không có sự hiểu biết này, thiền định sẽ là con đườnglầm lạc (vô minh). Đây là sự thiền định duy nhấtgiải thoát
ta khỏi con đườnglầm lạc.
Sự giải thoát không đến từ các kỹ thuật shamatha được sử dụng bởi cách tiếp cận của Tiểu thừa, vì với các kỹ thuật này ta chỉ có thể thành tựu một trạng tháian trú yên bình tạm thời. Chúng không giải thoát tâm thức
khỏi vấn đềcăn bản, và vì thế các vọng tưởngtiếp tụcphát khởi. Đây là lý do vì sao việc đạt được sự xác tín trong cái thấy và việc duy trìsự thiền định phù hợp với cái thấy là rất quan trọng. Đó là phương cáchduy nhất để giải trừ các vọng tưởng. Với kỹ thuật này, các bạn sẽ như một người đi tới một đại lục tràn ngập châu báu và không có bất cứ một hòn đá tầm thường nào. Các vọng tưởng không đáng sợ chút nào. Chúng trở thành dòng chảy mãi không ngừng của việc duy trì sự xác tín vào cái thấy.
Trong kinh nghiệm này, mọi tri giácmê lầm được tịnh hóa trong sự phô diễn của Pháp thân, và mọi nghịch cảnhxuất hiện như những bằng hữu của ta. Mọi mê lầm được bao hàm như con đường và sinh tử không bị loại trừ. Sinh tử là toàn hảo trong bản tánh bẩm sinh của nó và ta được giải thoát
khỏi trói buộc của sự hiện hữuhiện tượng, bởi ta đã kinh nghiệmtrạng tháigiải thoát không thể tìm kiếm và vốn là như thế. Nếu ta không có kinh nghiệm này về Pháp thân, vốn không phải là một sự thiền định, thì ta không bao giờ có thể hy vọng có được bất kỳ kết quả nào trên con đường. Bất kỳ sự thiền định nào mà ta thực hiện cũng sẽ chẳng bao giờ có
lợi lạc. Đó sẽ chỉ là con đườnglầm lạc, vì ta vẫn bị trói buộc bởi sự bám chấp và dính mắc nhị nguyên.
Sự bám chấp vào bản ngã và dính mắc với các hình tướng khách quan đã gây
nên một sự phân cách giữa bản ngã với các đối tượng và sự phân cách giữa chúng sinh với Phật tánh, hay sinh tử với Niết-bàn. Nếu ta thực hành kỹ thuật Dzogchen về sự xác định cái thấy và duy trìsự thiền định,
là sự tỉnh giác về cái thấy, thì ta sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Đây là trạng thái không do trau giồi (tu tập) của Pháp thân. Ta đã có được sự xác tín nơi giải thoát, hiểu rõ đây là cách thức duy nhất để thành tựusự giải thoát và sự xác tín đó là điểm trọng yếu thứ ba.
Cái thấy là Longchen Rabjam, thiền định là Khyentse Ozer, hành động là Gyalwe Nyugu. Trong Dzogchen, chúng ta có cái thấy, thiền định, hành động, và kết quả, chúng tạo thành sựthành tựu toàn khắp về giác tánh nội tại. Khi trạng tháigiác tánh nội tại này trở nên hoàn toànrõ ràng,
nó là tri giác trực tiếp của Pháp tánh, có năng lựcsoi sáng mọi cấp độ
bóng tối, giống như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng bóng tối vô minh.
Tiến trình đó bắt đầu với cái thấy, là sự nhận rabản tánhtỉnh giác nội
tại của ta. Nhờ thực hành, cái thấy trở thành sự thuần tịnh nguyên thủy, tương ứng với trekchod “xuyên thẳng đến sự thuần tịnh nguyên thủy”. Các bạn dùng cái thấy để xuyên thẳng đến sự thuần tịnh nguyên thủy. Trạng thái thuần tịnh nguyên thủy đó là sự trong sáng rỗng rang nền tảng, không bao giờ bị ô nhiễm bởi các tập khí, không có vết tích của đức hạnh hay ác hạnh. Trạng thái đó tinh khôi và viên mãn tự thân, là cực điểm của tất cả chín thừa.
Sự thành tựu pháp Dzogchen này là kết quả tối hậu của tất cả những con đường khác nhau trong Phật Pháp, nhưng cuối cùng để thành tựucon đường đó các bạn phải thành tựu Dzogchen. Nhờ thành tựutrạng thái thuần tịnh nguyên thủy này, ta trực tiếp gặp gỡ bản tánhtrí tuệ tự sinh của ta. Để
gặp gỡ bản tánhtrí tuệ tự sinh một cách trực tiếp, ta thiền định theo ba phương cách để giải thoát các vọng tưởng và đạt đượctrạng tháitoàn giácviên mãn này. Mọi sự được bao gồm trong trạng tháitoàn giácviên mãn này. Mọi sự mà loài người biết tới đều vốn có trong đó. Cho dù các bạn không trải quathời gian để học hỏi những điều này, tâm thức các bạn
sẽ tự nhiênmở rộng qua sự thực hành, và tánh giác toàn trí bẩm sinh bao la sẽ tự hiển lộ. Mức độ cao cấp này được đạt tới với thị kiến thứ ba của tưgal được gọi là “mức độ viên mãn của rigpa”. Trong sự thực hành
các bạn sẽ đạt đến mức độ nhận ra được rằng trước đây mình đã từng mê lầm nhưng giờ thì không còn nữa. Bạn sẽ cảm nhận được rằng mình đã từng là một chúng sinh tầm thường, nhưng giờ đây là một vị A-la-hán. Bạn sẽ đạt đến chỗ nhận biết sự khác nhau ấy và điều đó sẽ không thay đổi. Khi các bạn còn là một chúng sinh, hôm nay các bạn có thể đức hạnh và ngày mai trở nên vô đạo đức, bởi các bạn có thể thay đổi. Nhưng khi các bạn đạt tới cấp độ này của Dzogchen thì không thể có sự thay đổi hay thối lui (bất thối chuyển).
Vào lúc ta gặp gỡ bốn ánh sáng, gồm cả ánh sáng của “trí tuệ tự sinh”, trí tuệ bẩm sinh của ta bắt đầu sáng chói đến nỗi sự toàn giác nội tại hiển lộ. Đây là sự chứng ngộbản tánh của shunyata (tánh Không) vốn thấm
đẫm lòng trắc ẩn và đại bi bẩm sinh. Rồi thì lòng từ ái và bi mẫn tự phô diễn khiến ta thực sự có thể làm chủ đời mình như một vị Bồ Tát, là bậc mà cách hành động tự biểu lộ như một hành giả của sáu ba-la-mật. Hành động này sẽ trở thành một đại dươngmênh mông của Bồ Tát hạnh, huy hoàng và chói ngời như những tia nắng mặt trời chiếu sáng đồng thời mọi phía.
Cái thấy này của sự tiếp cận tịnh quang – con đườngKim Cương thừa Đại Viên Mãn – là vô song. Đây là các giáo lýsiêu việt nhất từng được trình
bày trong thế giới này. Nếu đã từng có một giáo huấn trực chỉ cốt tủy, thì giáo huấn đó chính là pháp Dzogchen. Giáo huấn trực chỉ này được truyền trực tiếp từ Đức Phậtnguyên thủy Samantabhadra (Phổ Hiền) tới Đức Vajrasattva. Ngài truyền nó cho ngài Garab Dorje, xuống tới vị Guru gốc của tôi. Guru truyền giáo lý này cho tôi như tinh chất của trái tim ngài trong hình thức của các giáo huấn trực chỉ cốt tủy. Giáo lý này được trình bày qua những ngôn từsúc tích không thể nghĩ bàn và hết sứcsâu xa. Ngài Patrul Rinpoche đã nói về chính mình khi ngài viết bản văn gốc này, là di chúc cuối cùng của ngài Garab Dorje: “Dù tôi là người đã không thực hành thiền định cũng vẫn có được những lợi lạc to lớn.” Đây là một cách biểu lộ sự khiêm tốn. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là ngài đã không đạt đượctrạng tháithành tựu đó. Đây là dòng khẩu truyền cổ xưa, trước tiên nó phải được nghe để cắt đứt mọi nghi ngờ, sau đó được tư duy để củng cố sự xác tín hoàn toàn, và cuối cùng được thiền định để đem lại năng lực vốn tiềm ẩn.
Giáo lý này về cái thấy, thiền định, hành động, và kết quả được truyền dạy lúc ban đầu bởi ngài Garab Dorje vĩ đại khi ngài ra đi trong thân cầu vồng. Thân ngài là một trái cầu ánh sáng trong bầu trời khi vị đệ tử
Manjushrimitra cầu xin ngài ban cho các giáo huấn cốt tủy trước khi ngài biến mất. Các giáo huấn đến từ quả cầu ánh sáng này và được Manjushrimitra nhận lãnh. Ngay chính giây phút đó, tâm thức của Manjushrimitra và Garab Dorje hợp nhất và trở thành không hai. Đây là di
chúc cuối cùng của Garab Dorje.
Ngài Longchen Rabjam đã dành trọn đời mình để thực hànhgiáo lý này và đã đạt được thị kiến thứ tư của tưgal được gọi là “sự tan biến của các hiện tượng trong chân tánh của chúng”. Điều này có nghĩa là sự nhị nguyên ngừng hiện hữu, và đó là sự giác ngộ. Hoạt độnggiác ngộ của Ngài
đã viên mãn, và Ngài đã thọ nhận dòng truyền dạy tâm truyền tâm. Sau đó, Longchen Rabjam xuất hiện với Jigme Lingpa trong một linh kiến và truyền các giáo lý này cho ngài. Đến lượt Jigme Lingpa đã thiền định về các giáo lý này và truyền chúng cho đệ tử chính của ngài là Gyalwe Nyugu. Vị này tu tậpthành tựu và truyền các giáo lý này cho Patrul Rinpoche, là bậc đã viết bản văn này.
Giáo lý này là sự truyền dạy của ba dòng truyền thừa: dòng tâmtruyền tâm, dòng truyền dạy bằng các biểu tượng, và dòng khẩu truyền. Đây là vàng đã được tinh lọc. Nó không chỉ là vàng, nó được tinh lọc, là cốt tủy của tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nó là tâm yếu của ba dòng truyền thừa, được bí mật trao cho các đệ tửtâm đắc. Nó là ý nghĩasâu xa và lời nóitừ tâm. Một người thực hànhgiáo lý này chắc chắn sẽ đạt đượcgiác ngộ trong chỉ một thân, ngay trong đời này. Nó không được chia sẻ với bất kỳ người nào có sự nghi ngờ. Tuy nhiên, không chỉ bày giáo lý này cho người có đức tin sẽ là một thất bại to lớn. Đây là giáo lýđặc biệt của Khepa Shri Gyalpo, Patrul Rinpoche, ngài sống vào khoảng một trăm bảy mươi năm trước. Ngài có nhiều đệ tử đã trở thành các Đạo sư vĩ đại của thời đạichúng ta và là các bậc Thầy của chúng ta, và chính từ các ngài mà ta nhận lãnh giáo lý. Sự truyền thừa như thế không phải là quá xa xôi.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giảsơ phát tâmtu trìpháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng cônghành trìpháp môn niệm Phật.
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rốidựa trênviệc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng tathực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
Đạo Phậtxuất hiện ở thế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
Thực tậpthiền định và chánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
Trong quá trình nghiên cứukinh Đại thừa nói chung và pháp mônTịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức PhậtA Di Đà.
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hậncha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tửxa gần.
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dươngrực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngãcuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạngcăng thẳngtâm thần, các xúc cảm tiêu cực và cải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác độngtích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức PhậtA Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyệncứu độchúng sanh
Sống trong thời đạivăn minh, con ngườicần phảihọc hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấntu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thànhdưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựngcộng đồng nhơn loại...
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
Tinh thầntu chứng, cũng như phụng sựtha nhânxây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem nhưchính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phươngchúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
Đại LễPhật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.