Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xin một chút từ tâm

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8395)
Xin một chút từ tâm

XIN MỘT CHÚT TỪ TÂM

Chân Hiền Tâm 

blankNhân duyên giữa mẹ chồng và chị không thuận chiều. Chị nói chuyện đâu đâu với thiên hạ, bà cũng đùng đùng nổi giận rồi chì chiết chị. Bà tiếc từng trái cam, gói mứt với chị. Biết cái duyên giữa mình và bà không thuận. Phận dâu con, chị làm được gì cho bà thì làm, không thì thôi. Nín nhiều hơn nói. Chuyện người ta đặt điều cho chị, bà nói bóng nói gió, chị cũng cho qua không màng đính chánh để miệng khỏi mở. Cực chẳng đã mới phải mở miệng. Ðã cực chẳng đã mới mở miệng, thành mở miệng ra là trăm phần trăm có chuyện …

Trước khi đi chùa, bà còn lớn tiếng đay nghiến “Nhớ lại quá khứ mày ra sao đi!”. Biết duyên không thuận, nhưng vì từ lâu chị coi ông bà như cha mẹ ruột, thành cái gọi là “nhân duyên không thuận” chị cũng quên tuốt. Nhưng quên, không có nghĩa duyên nghịch giữa chị và bà đã hết. Thành ra chuyện không dính gì đến bà, bà cũng đùng đùng nhập cuộc to tiếng. Bà đã mở miệng đuổi chị liên tục. Chị vẫn bình thường. Nhưng đến cái câu nhớ lại quá khứ … mọi thứ tan hoang. Nó như công án của vị thiền sư khai tâm đệ tử. Bùng vỡ tất cả. Chị thấy mọi thứ nguội lạnh. Không còn có gì để nói và làm. Vô tác ngay từ suy nghĩ cho đến hành động. Ðương nhiên không phải theo kiểu thiền sư đại ngộ. Ðược vậy thì còn gì bằng!

Mới biết vì sao Phật dạy tha thứ. Nếu không tha thứ, duyên nghịch giữa mình và người không bao giờ hết. Bởi còn ứ đó, nên người ta nói gì về chị bà cũng tin, chị nói cái gì ra bà cũng thấy khó chịu. 

Chị không thể hiếu hạnh theo kiểu cung cấp tiền bạc nuôi dưỡng ông bà. Bởi tiền nuôi con chật vật. Có khi em chồng còn phải cho thêm. Ông bà lại quá dư giả. Chị chỉ biết gói gọn công việc hằng ngày để có thời gian thăm hỏi, phụ ít công sức khi ông bà đau, an ủi tinh thần khi nhà có chuyện. Chị làm những gì có thể, đến khi hết sức. Quá khứ như thế chắc không đến nỗi để phải nhắc nhở. Nhất định không phải cái khoảng quá khứ đó rồi. Chắc là khoảng trước ... 

Cái khoảng chị mới lấy chồng làm dâu, sinh con đầu lòng. Cái khoảng Cần Ðước nước dâng theo mùa. Không nhớ sáng nước lên, chiều nước xuống hay chiều nước lên, sáng nước xuống. Chỉ nhớ nước bữa xuống bữa lên. Nước xuống đi bộ. Nước lên đi thuyền. Cái khoảng non ngày non tháng thăm chồng tù tội, nước lội buốt xương. Cái khoảng cặm cụi cực nhọc từ Long An sang Cần Ðước, lúc một mình, lúc với mẹ chồng. Chắc khoảng này đây. Cái khoảng chị khổ không sao kể xiết. Tiền bạc không có. Tinh thần thê lương. Khổ nếu từ trước, có khi lại ít thấy khổ. Con gái nhà lành chưa từng lặng lội, khổ tăng rất nhiều. 

Ðầu năm, chị sửa soạn cho con và cả cho mình. Gắng vui, gắng cười, đè nén cảm nhận lẽ loi khi thấy người người vui cười chúc tết lẫn nhau. Hy vọng năm mới bắt đầu tốt đẹp. Hy vọng mọi thứ buồn phiền năm cũ qua đi. Anh rồi sẽ về. Nhưng cha chồng không chịu. Ông không muốn con dâu vui cười dù chỉ là nụ cười gượng khi con ông đang còn trong tù. Mùng một, ông làm bài thơ tặng cháu. Chị hăm hở đọc thơ. Mọi dồn nén trong lòng vỡ ùa. Chị ôm con khóc suốt...

Da lành, muối xát bao nhiêu cũng không rát. Da đang lở, muối rát vô cùng.

Mẹ chồng lại càng khó chịu. Chị phải lãnh những chuyện chị không hề làm. Bà nói “Nó quăng tả lót con nó sai tui phải giặt”. Bà kêu “Tại nó mà tui bị chửi” v.v... Chị phải lãnh những chuyện không phải do lỗi của chị. Cứ như chồng khổ là do ở chị. Cứ như thất bại của anh là do lỗi chị làm. Những gì anh tình nguyện làm cho chị, trở thành cái gai trước mắt ông bà. Khổ này chồng khổ kia, chị như con trâu điên, vùng mình phản kháng. 

Người ta chỉ thấy được sự phản khán của chị, mà không thấy vì sao chị trở thành như thế. Nếu công bình bác ác một chút, liệu chị có thế không? Chị đã hỏi đức Phật vạn lần. Nhưng chẳng có gì ngoài ánh mắt hiền từ và nụ cười đỏ chói nửa như an ủi, nửa như giễu cợt của ngài. 

Mọi người nói với chị “Những gì mình phải chịu trong hiện tại là do nghiệp mình đã tạo ra trong quá khứ”. Chị không biết nghiệp là gì. Nhưng dù là gì, chị cũng không chấp nhận điều đó. Vì sao phải bắt con cái hiếu hạnh khi cha mẹ không có tình thươngxử sự thiếu công bằng với chúng? Chị không tin Phật dạy những điều bất công như thế. Nhưng chị không biết làm sao hỏi Phật, khi Phật chỉ nhìn chị cười mà không trả lời

Chỉ có một câu trả lời khiến chị an lòng: “Cha mẹ con thiếu từ tâm. Giá mà ông bà có chút từ tâm thì chắc con không đến nỗi đau khổ như thế. Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn”. Lời nói đi kèm với một ánh mắt thương yêu, khiến chị càng thấy tin tưởng. Nỗi đau của chị vừa được xoa dịu Không có từ tâm thì nói không có từ tâm. Ðừng nói do nghiệp của chị. Ít nhất cũng có một người nói đúng “sự thật” với chị. 

“Thử nhớ lại coi, trước đây đã có khi nào con đối với ai thế không. Trong một hoàn cảnh khốn khó, nhưng con lại hơi thẳng tay chẳng hạn”. Chị nhớ. Không cần phải moi móc nhiều. Bà mợ của chị một tay nuôi ba đứa con thơ. Chồng đi học tập. Thay vì để bà nương nhờ tiếp tục. Chị đã nói mẹ phát gạo cho bà nấu cháo, tạo sự tự lập. Không thể cứ sống nương nhờ vào mẹ khi mẹ đang sắp cạn kiệt. Cái lý thì đúng, nhưng tình thì không. Việc đó xảy ra nếu sớm một chút hay trễ một chút chắc không đến nỗi. Nhưng ngay lúc đó thì quả tàn nhẫn. Cái lúc người ta cần mình, mình lại đối xử vứt bỏ. Nhưng thường mình hay như thế. Giải quyết sự việc sao cho theo lý của mình, mà ít quan tâm đến nỗi đau khổ của người. 

Chỉ trừ Bồ tát. Còn lại, một người khỏe mạnh, khó hiểu được nỗi mệt nhọc của kẻ đau yếu. Một người hạnh phúc khó hiểu được nỗi khổ đau của kẻ bất hạnh. Mình theo lý riêng của mình nên mình đánh mất cái tình. Chị nhớ không mấy khó khăn những việc như thế. Chị thiếu một sự cảm thông. Chị ít đặt mình vào chỗ của người khi phải giải quyết sự việc. Sự thiếu từ tâm chị phải trả giá.

Buồn phiền uất hận tan theo lời nói nhẹ nhàng “Nỗi đau của người rất lớn. Trải qua một chút để biết thương yêu và biết cảm thông”. Chị hết thấy hận. Nếu không biết đạo, con người sẽ như con tằm làm kén. Tự nhả tự trói không biết ngày nào mới thôi. Nỗi oán hận này kéo theo nỗi oán hận kia, không biết bao giờ mới hết. Thành tâm cảm ơn trời Phật đã cho chị gặp hoàn cảnh như thế để mà tỉnh ngộ

Ừ! Trải qua một chút để biết cảm thông ... 

Chị không đòi hỏi con cái hiếu thảo với mình. Chỉ luôn tự hỏi mình đã làm gì cho chúng? Chị không còn trách sao con không thích gần mẹ. Chị chỉ tự hỏi vì sao nó không thích gần? Luôn có câu trả lời cho những vấn đề như thế để chị thay đổi. Nếu không, chị cũng không buồn, vì đã làm hết sức mình.

Ừ! Trải qua một chút để biết thương yêu ... 

Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy. Cũng không nói đến hiếu hạnh như việc bắt buộc. Cho nên, khi dâu hay rễ gọi chị tiếng mẹ, chị thấy mình có bổn phận với chúng nhiều hơn chúng có bổn phận với mình. Bởi chị không sinh không dưỡng. Chị muốn xứng đáng với một từ mẹ thiêng liêng mà chúng đã dành gọi chị.

Người ta tưởng dâu là con gái chị. Bởi chị không muốn giẫm chân vào vết mà người đã đi. Con trai mình nhậu không sao, nhưng con rể nhậu thì chì chiết khó chịu vô cùng. Chị sợ cái cảnh nhà chồng hay nhà vợ xúm lại hội đồng xua đuổi dâu rễ. Chị sợ cái cảnh ta thán con dâu trong khi con mình cũng chẳng hơn ai. Chị không muốn thế. Chị muốn hiện tại mọi thứ tương đối công bằng. Mọi thứ phải được giải quyết trong sự cảm thông yêu thương dù chỉ tương đối.

Và rồi chị hiểu, dù cha mẹ có như thế nào, đức Phật cũng khuyên mình phải hiếu hạnh và khuyên cha mẹ yêu thương dạy bảo con cái. Không phải đức Phật bênh vực cha mẹ. Chỉ là vì muốn giúp người chấm dứt những vòng nhân quả khắc nghiệt. 

Do thời mạt pháp, con người dễ vướng vào tham, sân, si. Thứ gì cũng chỉ tập trung cho mình và cái mình thích. Cái gì thích thì thứ gì cũng cho. Cái gì không thích thì xua thì đuổi. Từ tham chấp đó, quan hệ cha mẹ con cái trong một gia đình có khi không phải “máu huyết thâm tình” mà là một sự trả vay oan nghiệt. Nếu mình không tỉnh, cứ theo cái đà oan nghiệt mà đi, thì vòng nhân duyên oán ghét lẫn nhau cứ thế luân hồi. Kiếp sau gặp nhau lại oán lại ghét, ngày càng không thuận, đưa đến kết quả đáng thương như nay vẫn thấy: Con giết cha, vợ giết chồng… 

Viết ra điều này, tôi cũng đang làm một chuyện không nên: Khơi lại quá khứ của người. Nhưng dù không khơi, nó vẫn âm thầm hiện diện đó thôi. Chẳng qua một bên sống đạo, thành không có duyên để nó phát khởi, không phải duyên nghịch đã hết. Chi bằng khơi lại đầy đủ để hiểu nhân duyên nhân quả trong đời. Không phải chỉ để chị hiểu hay mẹ chị hiểu, mà để tất cả mọi người chúng ta cùng hiểu. Ðể thấy đến chùa, cúng dường làm phước không thôi chưa đủ. Cần hiểu giáo pháp Phật dạy. Bố thí cúng dường thì được phước báu giàu sang. Nhưng thiếu trí tuệ, có khi chính cái giàu sang giúp mình tạo nghiệp. Bởi nghèo có khi là duyên giúp mình an phận hiền lành, không dám mở miệng. Nhờ vậy mà ít tạo nghiệp. Giàu sang quyền hành, tha hồ miệng lưỡi, tạo nghiệp không ít. Cho nên, cúng dường bố thí chưa đủ mang lại hạnh phúc cho mình. Cần hiểu nhân duyên nhân quả chi phối cuộc đời thế nào mà tránh. 

Duyên nếu không thuận, việc gì cũng buồn. Cái tốt mình làm trong đời đều thành công cóc với người. Nhưng trên phương diện âm đức thì không. Nó đang âm thầm hóa giải nghịch duyên cho mình. Ðừng nản! Kiếp này chưa xong, kiếp sau cũng hết. Hy vọng cái khoảng “tan hoang nguội lạnh” của chị sẽ được ánh đạo sưởi ấm như từng giúp chị đánh tan uất hận trước đây của mình. Ðể khoảng nghịch duyên chấm dứt. Kiếp này ấm áp. Kiếp sau an bình

Thôi thì, tùy duyên tiêu nghiệp cũ và xin… một chút từ tâm, há chị!

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31912)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10625)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11321)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12866)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10907)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16868)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10908)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23109)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12178)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11588)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10771)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12421)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11287)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10116)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10405)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 12044)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10801)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12456)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9902)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11366)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13910)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9643)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12730)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9796)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10542)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10673)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10389)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9996)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11127)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12082)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10227)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10863)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9621)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9987)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8856)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9568)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14616)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8853)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12645)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10515)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9183)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10646)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9420)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8871)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10593)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9297)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8433)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12120)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9782)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10279)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10285)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19293)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9486)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9057)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9651)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9079)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14869)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10160)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8421)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9011)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9045)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8830)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9430)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14731)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9109)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8856)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9111)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10618)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8718)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10073)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24428)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10252)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11114)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9089)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9561)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8109)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9356)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15478)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10428)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9639)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17569)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21603)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12235)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10297)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19397)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26214)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8034)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14919)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10721)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9604)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18808)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12464)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11988)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10839)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13435)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10094)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9349)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9453)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 16001)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant