Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 29403)
Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

LUẬN VỀ VẤN ĐỀ HỘ NIỆM LÚC LÂM CHUNG
THEO KINH TẠNG NIKAYA
Chúc Phú

Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già
(1)..

blankHy vọng được lợi dưỡnghy vọng được sống là hai hy vọng khó từ bỏ của con người, được Phật dạy trong kinh Tăng Chi(2). Càng về cuối của kiếp người, khi cuộc đua giữa thọ mạngthời gian đang đi vào hồi kết, thì dường như hy vọng lợi dưỡng đã và đang ngấp nghé rời sân để nhường chỗ cho hy vọng được sống, được tồn tại. Đôi khi, với một số chúng sanh nói riêng, các niềm hy vọng này thực sự là những quan ngại, vì chúng chợt bùng lên mạnh mẽ, chi phối và tạo nên một sự ảnh hưởng lớn đến việc thăng hoa hay đọa lạc của một con người.

Vào những thời khắc cuối cùng của kiếp sống, thân thể nằm trong sự khống chế của tật bệnh, của những khổ đau; đó cũng là lúc những bất thiện pháp tiềm ẩn lâu nay có khả năng trỗi lên trong dòng chảy tâm thức. Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo. Thậm chí ngay như một vị xuất gia, đôi khi phải miễn cưỡng chọn giải pháp kết liễu mạng sống vì không vượt qua được những nỗi đau tột cùng của thể xác(3). Thực tế đó đã cho thấy rằng, hơn bao giờ hết, việc hỗ trợ cho chúng sanh, nói rõ hơn là việc hộ niệm lúc lâm chung, không chỉ rất cần trong mọi khoảng thời gian của đời sống, mà còn rất mực quan trọng và đầy ý nghĩa trong những giây phút cuối của đời người. Hộ niệm lúc lâm chung trong giới hạn được hiểu, tức là gấp rút chuyển hóa chúng sanh trong những giây phút cuối của đời sống.

Hộ niệm lúc lâm chung nhìn từ lịch sử kinh điển

Khi hay tin vua Tịnh Phạn có khả năng không qua khỏi, Đức Phật đã thân hành về gấp quê nhà để giáo hóa cho cha. Trên giường bệnh, với bảy ngày còn lại của cuộc đời, với sự khai thị tràn ngập tình thương yêu của Đức Phật, vua Tịnh Phạn đã chứng tứ quả A la hán trước khi xả báo thân. Với Đức Phật, tình thương là phổ quát và không chỉ dừng lại ở người thân. Kinh ghi: Có một tân Tỷ kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh, vừa nghe mấy chữ “tân Tỷ kheo” và “bệnh nặng”, Đức Phật đã thân hành thăm hỏi và giáo giới để cuối cùng, Tỷ kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt(4). Mặc dù bận rộn trong nhiều Phật sự, nhưng khi hay tin Tôn giả Phagguna bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cận lâm chung, Đức Phật đã tùy cơ nghi quang lâm hóa độ(5). Sự phù hợp, đúng lúc đúng thời trong khi thuyết pháp là một trong những đặc tính của Đức Thế Tôn.

Xuyên suốt hệ thống kinh tạng Nikaya, ta có thể gặp rất nhiều trường hợp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài như ngài Xá Lợi Phất, ngài A Nan… đã trực tiếp thuyết giảng cho người sắp chết. Đặc biệt như trưởng giả Cấp Cô Độc, tận tụy một đời phụng Phật và Tăng, nhưng khi lâm chung cũng không dám để Phật bận tâm nhiều, mà chỉ cho người thay mình đến đảnh lễ vấn an Đức Phậtcầu thỉnh ngài Xá Lợi Phất giáo giới. Kinh ghi: Này bạn, hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sariputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc”(6). Một đời tận lực phụng sự Tam bảo, thế mà đến phút cuối của đời mình cũng không dám phiền nhiễu đến Đức Thế Tôn, điều đó đủ thấy tầm mức vĩ đại của một cận sự nam trung kiên thời Đức Phật. Với những nghiệp nhân đã thực hiện trong đời, cộng với sự giáo giới kịp thời của Tôn giả Xá Lợi Phất, trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi thân hoại mạng chung liền sanh lên cõi Tusita (Ðâu Suất thiên)(7).

Từ những trường hợp vừa nêu, có thể nhận thấy rằng thời thuyết giảng, giáo giới trước khi lâm chung luôn được Phật và chúng Tăng chú trọng. Phải chăng trong quan điểm của Đức Phật, khoảng thời gian trước khi lâm chung được xem là thời khắc vàng, có ảnh hưởngchi phối đến sự vận hành của đời sống tiếp theo?

Thời khắc vàng và nội dung giáo giới

Bằng tuệ quán siêu việt, Đức Phật nhận thấy rằng được sanh làm người là một cơ may lớn, vì rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người(8). Đã được làm người và được nghe diệu pháp quả là hạnh phúc lớn lao. Tuy nhiên, được nghe pháp đúng thời và thẩm sát ý nghĩa đúng thời có thể được xem là thời khắc vàng của đời sống theo kinh Tăng Chi(9). Bởi lẽ, mặc dù khi sống, chúng sanh chưa thoát khỏi năm hạ phần kiết sử như: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân, nhưng trong những giây phút cuối của đời sống, được gặp Thế Tôn, được nghe thế Tôn thuyết pháp(10) vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Hoặc giả như tuy không được thấy Thế Tôn, nhưng được thấy đệ tử của Ngài thuyết pháp(11). Sau khi nghe thuyết pháp, tâm vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Theo kinh Tương Ưng(12), một khi đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử thì người đó sẽ vĩnh viễn không còn trầm luân vì đã đặt một chân đầu tiên vào dòng Thánh.

Nếu như khát vọng của Nho gia: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam”(13), thì ở đây, Đức Phật tin tưởng rằng, nếu như bất cứ ai siêng năng trong năm việc và một trong năm việc, đó là tin Phật một cách bất động và sâu sắc, thì nếu được giảng dạy buổi chiều, thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều(14). Ở đây, khả tính giải thoát sở dĩ diễn ra nhanh hoặc chậm tùy thuộc mức độ nỗ lực cũng như thiện căn đã gieo trồng của mỗi chúng sanh.

Cần phải thấy rằng, đời sống của con người vốn dĩ ngắn ngủi và càng ngắn ngủi hơn đối với bất kỳ ai đang lâm bệnh nặng. Do vậy, trong khoảng thời gian này, những nội dung thiết yếu, căn bản của pháp hành giải thoát cần được trang bị cho người bệnh. Nếu như chưa được quy ythọ trì ngũ giới thì tùy theo điều kiện nhân duyên, điều kiện biệt nghiệp của từng người, giúp họ hoàn thành tâm nguyện. Bởi lẽ khi và chỉ khi một người phát nguyện quy y Tam bảohành trì Ngũ giới, thì họ mới chính thức trở thành một vị cư sĩ, đệ tử tại gia của Đức Phật(15). Ngoài việc khơi dậy niềm tin bất động với Phật với Pháp với Tăng cũng như ý thức hành trì nghiêm chỉnh học giới của người cư sĩ(16); cần phải trang bị thêm nhận thức về ba tính chất xuyên suốt của đời sống như vô thường, vô ngã và khổ.

Từ thực tế bài pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới cho cư sĩ Cấp Cô Độc, giáo lý vô ngã đã được Tôn giả Xá Lợi Phất khéo léo trình bày. Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính, không chấp trước vào bất cứ điều gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ(17). Trường hợp giáo giới cho Tỳ kheo đang bệnh nặng Vakkali, cũng là một minh chứng sinh động trong việc trang bị cho người cận tử ba pháp ấn quan trọng này(18).

Với hàng chúng sanh nghiệp trọng, ý thức chấp thủ là một trong những hạn chế dẫn họ tái sanh trong khổ cảnh. Đặc biệt, đối với người cư sĩ tại gia nói chung, thì ý thức chấp thủ vào vợ con, tài sản luôn nổi trội hơn bình thường. Do vì một đời cực nhọc, lao tâm khổ trí để dành dụm của cải, do vì các mối liên hệ thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng người thân… đã cố kết từ lâu; cho nên ý thức chấp thủ sẽ trào dâng và trở nên mạnh mẽ vào lúc này. Do vậy, cần phải khéo léo trang bị cho người bệnh thái độ buông bỏ, xả ly. Ở đây, không những trong hệ thống kinh tạng Nikaya mà cả hệ thống kinh điển Bắc truyền, đã ghi lại rất nhiều trường hợp do vì bám víu, chấp thủ vào thời điểm cận tử, nên phải chấp nhận bị cuốn vào dòng xoáy bất tận của sanh tử, luân hồi.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, nội dung buổi thuyết giảng làm hành trang cho người cận tử theo kinh điển Nikaya bao gồm việc triển khai niềm tịnh tín bất động với ba ngôi Tam bảo, trình bày cũng như hoàn thiện các học giới, củng cố việc liễu tri tính chất vô thường vô ngã của sự vật, hiện tượng. Nếu như người nghe hội đủ các thiện căn đã vun đắp từ nhiều kiếp trước đó, thì có khả năng hoàn thành thánh vị dự lưu hoặc các phẩm vị cao hơn trước khi xả báo thân này. Trong trường hợp nghiệp căn còn nặng, thì ít nhất, với sự hỗ trợ và chuẩn bị ấy, người cận tử sẽ có một tâm thế an lành làm hành trang cho kiếp lai sinh. Lợi ích thiết thực nhất đối với người cận tử, đó là “Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-khưu, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp”(19). Nói chính xác, sẽ được dự lưu phần trong Thánh quả. Một thời khắc không dài nhưng hứa hẹn những tín hiệu tươi sáng cho đời sống vị lai, nếu như ai đó đủ duyên và chuyên tâm nỗ lực. Đó cũng là điều để lý giải tại sao Đức Phật cũng như các vị Thánh tăng thời ấy, luôn quan tâm và xem đấy như là biểu hiện sinh động cho tâm từ bi, mong mỏi độ thoát chúng sanh trong những cơ may cuối của kiếp người.

Mẫu hình cư sĩ độ sanh

Thời xưa gặp Phật đã khó, thời nay được gặp chúng Tăng trong phút cuối của đời người lại càng khó bội phần. Do vậy, việc tự mình giúp đỡ người thân, cũng là một trong những việc làm quan trọng và thiết thực của người Phật tử. Câu chuyện Cha mẹ Nakula(20) là một minh chứng sinh động về việc tương trợ lẫn nhau trong phút giây nguy khốn của đời người. Theo kinh, cha của Nakula bệnh nặng, khó lòng qua khỏi, nằm trên giường bệnh, vô số điều lo nghĩ thiện và bất thiện thôi thúc và dằn vặt tâm tư: là trụ cột kinh tế của gia đình, nếu ông ra đi mà chưa kịp chuẩn bị, thì mẹ con biết nương dựa vào đâu? Con có lẽ sẽ thiếu học, thiếu ăn và nhà cửa có thể sẽ bị bán? Hoặc, vợ mình còn trẻ đẹp thế này, mình chết sớm, có lẽ bà ấy sẽ tái giá mất thôi. Đôi khi, cũng có những tư tưởng thanh cao hơn được phát khởi: khi còn mình, bà ấy còn đi nghe pháp, còn lên tinh xá gặp Phật và chư Tăng, nghiêm trì học giới, khi mình mất rồi, bà ấy có còn thực hiện các việc lành này không?… Vô vàn điều suy nghĩ thiện và bất thiện đồng loạt khởi lên, cuộn chặt tâm tư u ám.

Sợ chồng mình đọa lạc vì trong giây phút mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến, mẹ của Nakula vừa thuận thứ hứa khả, vừa dẫn dắt tâm tư của chồng. Bà bảo rằng: ông à, nếu ông mất đi, có lẽ tôi sẽ vất vả hơn, nhưng tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu và để cuối cùng, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Ông đừng suy nghĩ quẩn quanh về việc tôi sống ra sao khi thiếu ông và thậm chí đừng quá bận tâm về tiết hạnh của một phụ nữ góa chồng, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào, đó là điều mà ông hoàn toàn hiểu rõ. Về việc hộ trì Tam bảo và thăng tiến tâm linh, ông càng đừng lo, vì sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn. Trên phương diện hành trì học giới của người cư sĩ, dù ông không có ở gần để nhắc nhở, nhưng ông hãy an tâm đi, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ giới luật một cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy.

Mặc dù gia chủ Nakula vượt qua trọng bệnh, nhưng những tâm tư rất thực của ông, cùng những lời chia sẻ chân thành của người vợ hiền, đáng được xem là sự điển hình trong tư duy và tính mẫu mực, như pháp, trong việc hỗ trợ lẫn nhau vào giây phút cuối của người tại gia cư sĩ. Thông điệp chuyển tải từ câu chuyện, đó chính là: chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến.

Chuẩn bị cho chuyến viễn hành

Không có cái gì sinh mà không già, không chết(21). Chân lý đó được Phật vận dụng nhiều phương tiện để chỉ bày, nhằm trang bị một nhận thức thường trực trong suy nghĩ của chúng sanh. Nếu như được nuôi dưỡng thường trực quán niệm ấy, thì khi nhân duyên chín muồi, thuật ngữ Phật học gọi là sung mãn, thì cánh cửa bất tử sẽ được mở ra cho hành giả.

Song song với việc tư duy về tính chất phổ quát vừa nêu ở trên, trầm tư về yếu tố không bền vững, không ổn định, bấp bênh của mọi sự vật hiện tượng luôn có khả năng xảy đến cho ta ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quán chiếu vô thường là cách nói khác về trường hợp vừa mô tả. Thứ ba, mỗi tâm hành hay sự vật hiện tượng, sở dĩ chúng hiện hữu là do nhiều yếu tố hòa hợp mà thành. Nhận chân tính chất duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng cũng là một nội dung cần được trang bị. Và nếu như thực hiện được ba yếu tố quan trọng ở trên, hành giả đã và đang kiện toàn về lãnh vực nhận thức, về trí tuệ.

Mang thân phận con người nhưng để làm người đúng nghĩa, đúng với cái danh nghĩa đã mang, như trong kinh gọi là Danh phải tương xứng người(22), thì việc kiện toàn những nguyên tắc đạo đức căn bản của người cư sĩ tại gianăm giới, là một nội dung cần phải chuẩn bị. Nói cách khác, nghiêm chỉnh về học giới là một trong những tiêu chuẩn khi sống trong đời. Đặc biệt hơn, nếu như người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn(23), là điều được khẳng định và tán thán trong kinh.

Sống đã lo sợ nhiều bề, khi gần chết thì càng hoang mang tột độ. Muốn tĩnh tại, bình yên không hoang mang trong hiện tại và giữ được tâm bình lặng trong phút cuối của đời mình, thì ngay trong đời sống này, cần phải kiện toàn niềm tịnh tín Tam bảo một cách vững chãi. Học Phật để rồi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Tam bảo với niềm tin chánh tín, đó là điều kiện cần để có được một thú hướng an vui. Ngoài ra, các học pháp bổ trợ như bố thí, phóng xả, vị tha… cùng những thiện pháp tương ưng cũng cần phải song song thực hiện.

Nếu thực hiện được như vậy thì dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra về thể xác, về thân mạng, dù đột tử mà chết hoặc chết với bất cứ lý do gì như: gặp con voi cuồng chạy; gặp con ngựa cuồng chạy; gặp người cuồng chạy; gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy(24), hoặc do hết thọ mạng mà chết, thì sanh thú hướng về sẽ là thiện thúthiện giới. Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chãi, qua hình ảnh một thân cây khi bị đốn ngã, thì nó sẽ ngã xuôi về hướng mà thân cây từ trước tới nay đang hướng về(25). 

_____________________________________________

(1) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8, kinh Già.

(2) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng, kinh Hy vọng.

(3) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo giới Channa.

(4) Kinh Tương Ưng, tập 4, thiên Sáu xứ, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phẩm Bệnh, kinh Bệnh.

(5) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(6) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc.

(7) Kinh đã dẫn.

(8) Kinh Tương Ưng, tập 2, thiên Nhân duyên, chương IX, Tương ưng thí dụ, kinh Đầu ngón tay.

(9) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(10) Kinh đã dẫn

(11) Kinh đã dẫn

(12) Kinh Tương Ưng, tập 5, Thiên đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh Dighavu.

(13) Luận Ngữ, thiên Lý Nhân: 朝聞道,夕死可矣.

(14) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Bồ Đề Vương Tử.

(15) Kinh Tương Ưng, chương 1, Tương ưng uẩn, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.

(16) Kinh đã dẫn

(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo giới Channa.

(18) Kinh Tương Ưng, tập 3, chương I, tương ưng uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali

(19) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Không ưa nghe.

(20) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, phẩm Cần phải nhớ, kinh Cha mẹ của Nakula.

(21) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(22) Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà la môn, phẩm A La Hán thứ nhất, kinh Bất hại.

(23) Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn.

(24) Kinh Tương Ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 1.

(25) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 2.

Nguồn: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31848)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10590)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11303)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12828)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10890)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16808)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10881)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23067)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12144)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11562)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10750)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12400)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11266)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10084)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10389)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11998)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10772)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12430)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9879)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11336)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13896)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9631)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12700)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9762)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10523)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10645)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10376)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9961)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11109)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12052)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10194)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10834)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9596)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9961)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8848)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9547)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14588)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8826)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12624)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10500)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9150)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10628)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9386)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8850)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10576)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9264)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8412)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12101)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9760)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10254)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10277)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19246)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9467)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9038)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9628)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9054)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14838)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10143)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8412)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8999)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9032)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8800)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9416)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14696)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9085)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8837)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9090)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10600)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8697)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10051)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24388)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10233)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11088)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9064)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9535)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8064)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9330)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15452)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10399)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9631)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17525)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21561)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12213)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10276)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19357)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26181)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8018)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14899)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10697)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9573)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18780)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12444)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11969)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10825)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13415)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10075)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9322)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9442)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15976)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant