Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 02: Ba phúc

13 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10244)
Chương 02: Ba phúc

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 2: Ba phúc


1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát hại, tu mười thiện nghiệp

a. Hiếu dưỡng cha mẹ: Điều này, tôi giảng rất nhiều lần, chúng ta học kinh không thuộc và không hiểu ý nghĩa của kinh rõ ràng, tâm hạnh trái với lời dạy trong kinh dạy; đây là đại bất hiếu vì không cung kính, chúng ta cần phải biết rõ.

b. Phụng sự sư trưởng: Chúng ta là người học Phật, vị thầy đầu tiên là Đức Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni. Đức Bổn Sư dạy chúng ta học theo Phật A-di-đà nên Đức Phật A-di-đà cũng là Bổn Sư của chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, tâm mình có giống như tâm Phật không? Suy nghĩ có giống như Phật nghĩ không? Làm thế nào giống như tâm Phật, nghĩ như Phật? Những điều này, trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói là tâm chân thật của Phật, là mẫu mực của Phật. Chúng ta có thật sự hiểu không? Có thật sự tinh tấn tu hành không?

Tu hành là dựa theo tiêu chuẩn Đức Phật dạy, chúng ta phải sửa đổi cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của mình trong cuộc sống hằng ngày thì gọi là tu hành. Nếu như hằng ngày chúng ta làm ra vẻ như người học Phật, nhưng trên thực tế thì lừa mình dối người, như thế nhất địnhcảm ứng với ma, ma sẽ đến hộ trì cho bạn mà không phải là Phật. Dụng ý của ma đến hộ trì bạn để làm gì? Để chúng hủy diệt Phật pháp và gây chướng ngại cho Phật pháp.

Chẳng những ngay trong đời này bạn không được tự tại, không được như ýquả báo đời sau lại càng đáng sợ. Chúng taý thức được điều này không? Chúng tacảnh giác không? Cho nên tôi thường khuyên các vị đồng tu, cơ duyên của chúng ta thù thắng không ai bằng, nếu trong chốc lát mất thân người bị đọa vào ba đường ác thì thật là đáng tiếc, nói ra thật khó nghe, thật rất oan uổng!

Vì thế, nền tảng của Phật pháp, căn bản của căn bản là ‘hiếu kính’, nghĩa của hai chữ hiếu kính này rất rộng lớn. Hiếu kính với tất cả chúng sinh, đó là học Phật. Nếu chúng ta làm được việc hiếu kính đối với tất cả chúng sinh, như thế thì chúc mừng bạn rồi, chẳng những bạn ra khỏi luân hồi mà còn thoát ra khỏi chín pháp giới. Bởi vì, chân thật hiếu kính tất cả chúng sinh chỉ có pháp thân Bồ-tát mới làm được. Kinh Hoa nghiêm nói: “Sơ trụ Viên giáo trở lên mới thực hành được”. Do đó, không thể không phát tâm này, sau khi phát tâm này rồi cần phải thật sự nỗ lực thực hành, quyết tâm làm cho được.

c. Từ tâm không sát hại: Trong các tội nghiệp, hành vi sát sanhtội nghiệp nặng nhất; cho nên, Đức Phật tổng hợp trọng tâm của giới luật dạy cho chúng ta “lòng từ không sát hại”. Trong đạo Phật thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Chúng ta phải vun bồi tâm từ bi, tuyệt đối không được sát hại, cho đến làm tổn hại tất cả chúng sinh. Người không có tâm từ bi thì không thể học Phật, làm tổn hại chúng sinh thì nhất định sẽ gây kết oán thù rất nặng; do đó mà có những oan gia trái chủ báo thù lẫn nhau không dứt.

d. Tu mười thiện nghiệp: Người giác ngộ tuyệt đối không được kết oán thù với chúng sinh. Một khi kết oán thù với chúng sinh đều là do mê hoặc điên đảo, bị vô minh phiền não che lấp. Vì thế, chúng ta phải tu mười thiện nghiệp, đây là nền tảng của sự tu tập, chúng ta đem nó áp dụng vào cuộc sống thường ngày, tiêu chuẩn đều là lời dạy trong kinh luận, từ nền tảng này chúng ta bước vào cửa Phật.

2. Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.

a. Thọ trì tam quy: Chúng ta bước vào cửa Phật, trước tiên phải thọ Tam quy y. Đây là điều Đức Phật dạy cho chúng ta ra khỏi sáu đường luân hồi, mục tiêu là hướng đến Bồ-đề Niết-bàn gọi là Tam bảo. Tam bảo là Giác, Chánh, Tịnh. Bất cứ nơi nào, lúc nào chúng ta vẫn luôn luôn giữ tâm giác ngộ của mình. Giác là không mê, xưa nay chúng ta chỉ mê mà không giác, ngày nay quay đầu lại gọi là “trở về”, quay đầu thì cần phải quy y “giác mà không mê”.

Đức Phật lại dạy, do chúng ta chấp vào tri kiến và cách nghĩ, cách nhìn sai lầm nên phải quay đầu lại, nương theo chánh tri, chánh kiến. Tri kiến như thế nào gọi là chánh? Chư Phật, Bồ-tát hoàn toàn không nói: “Tri kiến của ta là chánh tri, chánh kiến, còn tri kiến của các ông là tri kiến sai lầm”. Không có Phật, Bồ-tát như thế.

Các ngài dạy: “Tri kiến tương ứng với tự tánh là chánh tri, chánh kiến; tri kiến trái với tự tánh là tà tri, tà kiến”. Cách nói như thế, chúng ta mới khâm phục; bởi vì, chúng ta chưa minh tâm kiến tính nên phải thừa nhận cách nhìn, cách nghĩ của chúng ta đều là sai lầm. Cho nên, khi mới học Phật chúng ta không thể không nương theo Đức Phật, nhưng Phật lại dạy rất hay là chúng ta không thể nương theo Ngài mãi mãi mà chỉ có thể nương theo một thời gian. Sau khi, chúng ta minh tâm kiến tánh thì không cần nương theo Ngài nữa; trước khi chúng ta chưa kiến tánh mà không nương theo Ngài thì chẳng còn phương pháp nào tốt hơn được.

Vậy được minh tâm kiến tánh có dễ không? Là phải đoạn trừ phiền não, phá phiền não chướng. Phiền não gây chướng ngại cho tự tánh của chúng ta. Bạn còn phiền não thì nhất định không thể nào kiến tánh được, vẫn phải tu học theo pháp môn. Tu học theo pháp môn cũng là phá sở tri chướng, vì sở tri cũng làm chướng ngại tự tánh. Trừ sạch hai chướng ngại lớn này thì mới minh tâm kiến tánh.

Chúng ta nói điều này thì rất dễ dàng, nhưng thực hành thì rất khó; cho nên, Đức Phật dạy hàng phàm phu chúng ta còn bị nghiệp chướng này sâu nặng, căn tánh của phàm phu ám độn chỉ có phát nguyện cầu sinh về Tịnh độ. Phương pháp này rất tuyệt diệu, có thể tạm thời không cần đoạn Kiến, Tư phiền não mà vẫn vãng sanh về Tịnh độ, cũng không cần tu học vô lượng pháp môn; chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh thì được vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc diện kiến Phật A-di-đà, sau đó nỗ lực học với Ngài. Về cõi này chúng ta tu đoạn phiền não, lại học pháp môn thì đạt được cứu cánh giải thoát viên mãn.

Do đó, khi thọ trì tam quy, chúng ta phải quy y Phật A-di-đà và nương theo kinh điển Tịnh tông. Kinh điển Tịnh tông hiện nay chỉ có năm bộ kinh[2] và một bộ luận Vãng Sinh. Nếu bạn quy y theo hết các kinh luận này thì rất tốt, còn như chê nhiều thì trong sáu bộ này, bạn chọn bất kỳ một bộ nào để thực hành cũng được. Có lẽ sẽ có người hỏi: “Một bộ thì có ít quá không?”. Chúng ta đọc Vãng sinh truyện hay Tịnh độ thánh hiền lục thấy từ xưa đến nay có rất nhiều người ngay một bộ kinh cũng chẳng biết, suốt đời chỉ biết niệm một câu A-di-đà Phật mà họ vẫn có thể đứng vãng sanh hay ngồi vãng sanh.

Niệm một câu hiệu A-di-đà Phật còn thành tựu được, huống gì một bộ kinh? Chúng ta phải tin việc này chân thật, như trong kinh Kim cang nói: “Tín tâm chẳng trái nghịch” thì mới có thể thành tựu.

Tăng bảochúng ta quy y bồ-tát Đại Thế Chí và bồ-tát Quán Thế Âm. Chúng tu ta theo Tịnh tông, quy y Tam bảo thực tế là trên sự tướng. Đại Thế Chí biểu hiện lý trí chẳng phải tình cảm; Quán Thế Âm biểu hiện từ bi. Cho nên, chúng ta quy y Tăngquy y từ bi theo lý trí chẳng phải từ bi theo tình cảm; từ bi theo tình cảm là việc không tốt. Từ bi phải lấy lý trí làm nền tảng, được như thế mới gọi là thọ trì tam quy.

b. Đầy đủ các giới, không phạm oai nghi: Chúng ta có thể giải thích giới là những giới điều mà Đức Phật đã dạy trong tất cả kinh điểnchúng ta tuân thủ, nhưng không phải chấp chặt những giới điều. Chúng ta phải xem kỹ những giới điều trong kinh dạy, tất cả giới điều đều bao hàm trong đó, không hề thiếu sót. Từ trên nền tảng này mà khế nhập vào pháp môn của Bồ-tát.

Pháp đầu tiên của Bồ-tát là phát đại tâm, phát Bồ-đề tâm. Chúng ta muốn vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc phải nhớ kỹ trong kinh Phật giảng, điều kiện để chúng ta được vãng sanh có hai câu tám chữ. Tam bối vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ nói bất luận là thượng bối, trung bối và hạ bối đều không khác nhau, đều là “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.

Thế nào là phát tâm Bồ-đề? Là tâm độ khắp chúng sinh, “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”. Nếu như bạn ghét chúng sinh này, thích chúng sinh kia thì bạn có đến được thế giới Tây phương Cực Lạc không? Chắc chắn là không thể đến được, cho dù mỗi ngày bạn niệm mười vạn câu danh hiệu Phật, niệm một vạn tiếng danh hiệu Phật, bạn cũng không thể vãng sanh được. Vì sao? Vì bạn không có tâm Bồ-đề; điều này không thể không chú ý.

Trước đây thầy Lý[3] thường nói người ngày nay niệm Phật, một vạn người niệm Phật khó có được hai, ba người vãng sanh. Không phải họ không tinh tấn, suốt ngày xâu chuỗi chẳng rời tay, từ sáng đến tối miệng không ngừng niệm A-di-đà Phật, A-di-đà Phật, nhưng vì sao họ không vãng sanh được? Vì họ không phát tâm Bồ-đề nên không phù hợp tiêu chuẩn vãng sanh. “Nhất hướng chuyên niệm” thì họ làm được, nhưng “phát tâm Bồ-đề” thì họ không làm được, do đó họ không thể vãng sanh.

Hôm qua Quán Trưởng nói chuyện với tôi về Khổng Lão Phu Tử. Đức học của Phu Tử có từng giai đoạn rất rõ ràng, đây là tấm gương tốt cho chúng ta. Lão Phu Tử nói “Tam thập nhi lập”. Lập cái gì? Lập chí hướng! Lập chí theo nhà Nho nói giống như Phật pháp của chúng ta nói phát tâm. Phu Tử lập chí là chí đối với sự học, suốt đời theo nghiệp học vấn. Hôm nay chúng ta lập chí là độ khắp chúng sinh, chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, chúng ta đích thực lập chí này. Bốn hoằng thệ nguyện là lập chí, chúng ta có thật sự lập được không?

Nhà Nho nói nếu không lập chí thì việc gì cũng không thành tựu được. Vì sao? Bởi vì chúng ta không có phương hướng, không có mục tiêu, dù cho có nỗ lực cũng không thể có kết quả. Pháp xuất thế gian so với pháp thế gian càng phải nghiêm túc hơn nhiều, chúng ta không phát nguyện thì làm sao hành? Cho nên trước tiên phải phát nguyện, phát tâm Bồ-đề chính là phát đại nguyện. Quá trình đức học của Phu Tử quả là tấm gương cho chúng ta.

“Tứ thập nhi bất hoặc”. Đến tuổi này là Ngài không bị mê hoặc, không bị cảnh giới bên ngoài lôi kéo, vì Ngài không còn mê muội.

“Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”. Biết mệnh trời là ý nghĩa gì? Là Ngài biết biết rõ nhân duyên, quả báo; biết tất cả chúng sinh đều là hiện tượng nhân duyên, quả báo tuần hoàn tương tục.

“Lục thập nhi nhĩ thuận”. Là tâm an định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Kinh Kim cang nói: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng”. Trí tuệ chân thật hiện ra. Đại sư Lục Tổ Huệ Năng nói trong Đàn kinh:

Nếu người thật tu đạo

Không thấy lỗi thế gian.

Tai họ nghe nhưng không thấy lỗi của thế gian. Trong kinh Hoa nghiêm, Đồng tử Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, cũng không thấy lỗi thế gian. Cảnh giới này là cảnh giới tai đã thuận.

“Thất thập nhi tùy tâm sở dục”. Là đến bảy mươi tuổi công phu thành tựu. Giữ tâm như thế nào? Là tâm làm theo ý muốn nhưng không vượt qua phép tắc. Thế nào là phép tắc? Là hoàn toàn tương ứng với pháp tánh, tuyệt đối không trái với pháp tánh. Cũng chính là nói theo ý muốn mà Ngài tự nhiên hợp tình, hợp lý, hợp pháp. Điều này thật vi diệu, đạo Phật chúng ta nói là “đại tự tại”, cuộc sống tự tại, hành vi xử sự, đối nhân xử thế cũng tự tại. Đây chính là nói “lợi ích thật sự”, “thọ dụng thật sự”. Phu Tử làm được, chúng ta là người học Phật thì phải đạt đến một cách nhanh chóng và viên mãn.

3. Phát tâm bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả

Điều sau cùng là “Tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa”. Hiện tượng trong mười pháp giới y chánh trang nghiêmquả báo. Quả phức tạp là theo mức độ phức tạp mà nói thì nhân tất nhiên sẽ tỷ lệ thuận với quả. Vì trong nhân quả phức tạp như thế nên chúng ta cần phải cẩn thận chú ý, luôn cảnh giác chính mình từng thời khắc, tuyệt đối không được tạo nhân xấu.

Khi còn trẻ, mới tiếp xúc Phật pháp, tôi vô cùng khâm phục Đức Phật, Ngài chỉ dạy mọi người hãy nhìn mình, không nên nhìn người khác. Điều này làm tôi khâm phục năm vóc lạy sát đất. Đức Phật dạy là dạy cho bạn, không phải dạy cho người khác. Nếu như bạn không vào từ cửa này mà muốn sớm thành tựu đạo nghiệp thì tuyệt đối làm không đến. Bởi vì, trọng tâm tu học Phật phápthiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt nó thì đến khi nào bạn mới đạt được định? Sẽ không bao giờ đạt được mục đích ấy!

Bạn muốn thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự thì hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; vì thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, bạn không cần để ý. Bạn đối với cảnh bên ngoài tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử người thiện và người ác bình đẳng như nhau, tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân thành. Bạn vận dụng được tâm này thì không những người tốt, người thiện ca ngợi bạn mà người xấu cũng tán dương bạn; người xấu được bạn cảm hóa, đoạn ác tu thiện. Vì thế, Lục Tổ nói rất hay:

Nếu người thật tu đạo

Không thấy lỗi thế gian.

Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi mình thì chúng ta thành công. Công phu tu tập của bạn đạt được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự.

Người khác thì thế nào? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính mình. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống gì ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người khác? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ ký, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của bạn? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo của bạn. Vì họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói lỗi của bạn, bạn không được cãi lại. Bạn nói lỗi của bạn đồng học thì bị họ oán hận, thù hiềm rình chờ cơ hội báo thù. Do đó, ai chịu nói lỗi cho mình? Không có người nào chịu.

Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp một cách khéo léo để chúng ta nghe rồi nghĩ lại, mình có lỗi hay không, nếu có lỗi thì hãy mau tự mình phản tỉnh; đây gọi là “có lỗi thì sửa, không có lỗi thì khen ngợi”. Các ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các ngài chỉ nói một cách khéo léo để chúng ta tự mình phản tỉnh, tự giác ngộ, vì tâm của các ngài thanh tịnh. Vì thế trong kinh, luận nói lỗi lầm của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây là sự tài tình trong cách dạy học của Đức Phật nên Ngài chẳng mất tâm thanh tịnh.

Chúng ta phải hiểu rõ những điều này để tự mình phản tỉnh, hiểu được lòng từ bi chân thành của chư Phật, Bồ-tát thật bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh thì tự nhiênPhật hộ niệm; Hộ pháp, Thiện thần ủng hộ chúng ta. Chúng ta không cần lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại. Bằng không, dù người khác không đến gây chướng ngại mà chính mình lại tự gây chướng ngại trước. Chúng ta nghĩ làm việc gì thì đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính mình trước tiên; điều này chúng ta cần phải nhìn kỹ mà buông xả.

Chúng ta phải tin chắc có sự hộ niệm của chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng ta. Còn nếu mình luôn nghi ngờ thì chẳng những Đức Phật không hộ niệmThiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ, bằng không thì chịu thiệt thòi rất lớn.

Vì thế, hai chữ “tin Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có còn vọng tưởng không? Còn lo âu, còn bận tâm không? Tất cả đều không còn, như thế mới nhất tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng ta đọc đoạn mở đầu trong kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật Thích-ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá Vệ khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta có thể biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có gì thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy; những việc xử sự, đãi nhân tiếp vật, xã giao vẫn như thường.

Phật, Bồ-tát khác với phàm phu ở điểm nào? Phàm phu khởi tâm động niệm trong tất cả cảnh duyênphân biệt chấp trước nên trái với đạo. Còn Phật, Bồ-tát ngay trong cuộc sống không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước, hằng thuận chúng sinh, tùy hỷ công đức. Cuộc sống của các ngài tự tại, giao tiếp tự tại, được đại tự tại, được đại viên mãn.

Đại tự tại, đại viên mãn đều từ trong tâm thanh tịnh sinh ra. Kinh Kim cang nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh thì sinh thật tướng” tức là sinh trí tuệ thật tướng Bát-nhã. Trí tuệ thật tướng Bát-nhã hiện ra thì làm sao mà không được tự tại! Làm sao mà không viên mãn! Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh.

Vì thế, người tu hành ở bất cứ lúc nào, nơi nào cũng luôn luôn giữ tâm thanh tịnh, cũng chính là Giác, Chánh, Tịnh mà phần trước nói là Tam quy. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Đạo lý niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ như thế, lẽ nào chúng ta không được vãng sanh?

Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy: “Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không được làm theo ý thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, kinh Hoa nghiêm ghi: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Vậy chướng ngại ở đâu? Chướng ngại ở ý thế gian. Ý thế gian là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ý nghĩa hai câu này rất sâu rộng.

Đức Phật thuyết pháp suốt 49 năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Ngài giảng điều gì? Chính là giảng những điều này, muôn nghìn lời nói, nói không cùng, đối với người, đối với việc, đối với sự vật; chúng ta nghĩ như thế nào? Nghĩ là sai lầm, nghĩ là rơi vào trong ý thức, nghĩ chính là vọng tưởng.

Có lẽ bạn hỏi: Chẳng phải mọi người đều phải suy nghĩ đó sao? Không sai! Mọi người đều là phàm phu, đều có vọng tưởng. Có phải ai cũng như thế không? Chỉ trừ Phật, Bồ-tát không suy nghĩ như vậy. Đáng tiếc là bạn chưa thấy, những điều bạn thấy đều là phàm phu; cho nên, bạn cho việc mình suy nghĩ bình thường.

Tại sao Phật, Bồ-tát không có suy nghĩ như thế? Bởi vì, các ngài biết vạn pháp đều không. Trong kinh Kim cang ghi: “Không thể nắm bắt được tâm ba thời”. Các ngài biết nghĩ là không, các pháp do duyên sinh, duyên sinhtánh không, nên nghĩ cũng là không thì có gì để đâu mà suy nghĩ! Các ngài không suy nghĩ, nhưng đối phó sự việc lại có thể chu đáo mọi mặt. Tại sao các ngài làm chu đáo? Là phát xuất từ trí tuệ.

Tôi nêu ra một ví dụ, khi chúng ta đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có hay không? Rất có thứ tự, lớp lang không một chút lộn xộn; bất luận là giảng lý hay sự, đều đâu ra đó. Phật không khởi ý niệm: “Lần này, Ta phải giảng pháp như thế nào?”. Chưa hề, Ngài không khởi tâm, không động niệm, hoàn toàn tùy thuận tự tánh, từ trong tâm tánh phát ra tự nhiên như thế.

Chúng ta còn khởi tâm động niệm nên hành động còn nhiều thiếu sót. Vì sao nhiều người giảng mà chẳng có ai thành công, tại sao nhiều người viết sách mà chẳng có ai viết hay? Cho nên, chúng ta học Phật là học không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, mọi việc đều dùng tâm chân thành. Tâm chân thành tất nhiên phát sinh trí tuệ, nên tự nhiên được chư Phật gia trì. Sự gia trì này chính là sự hộ niệm, sự quan tâm của chư Phật.

Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ý nghĩa này không? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu quả? Vì sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân là ở tại chỗ này.

Chúng ta xét kỹ lại mình, tự kiểm điểm mình thì thấy chúng ta làm sai rồi! Hôm nay chúng ta thuận theo phiền não, tùy thuận tập khí. Phiền não là tham, sân, si. Chúng ta tùy thuận mấy thứ này; mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay, liền khởi tâm tham đắm, khởi tâm kiêu mạn, việc gì không vừa ý thì nổi giận; những điều này đều là ngu si.

Thế nên, có người này nhìn bề ngoài dường như là học Phật, nhưng trên thực tế đối với người, đối với sự việc, đối với sự vật thì luôn khởi tâm động niệm chẳng có chút gì sửa đổi. Trong kinh Đức Phật dạy hai chữ “thọ trì”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ý nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu thì lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi tụng kinh một lầnthọ trì. Chúng ta biết sai ở đâu không?

Tôi nói thật, chúng ta muốn đạt được hiệu quả công phu tu tậpcải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà còn cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ý nghĩa này thật là rất dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong kinh, luận Đại, Tiểu thừa Đức Phật dạy, sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó. Vậy chúng ta sẽ đi về đâu? Phần đông đọa trong ba đường ác.

Làm sao chúng ta biết mình đọa vào ba đường ác? Chỉ cần nghe mọi người nói một câu thì biết rõ: “Chết rồi làm quỷ”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi đều làm quỷ. Tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm người mà chỉ nghe nói sau khi chết rồi làm quỷ.

Đức Phật thường dạy chân lý: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ý nghĩ, quan điểm như vậy thì nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sinh lên cõi trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta không nên cho câu nói này là bình thường, chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu nói này thật không bình thường.

Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh, kinh Hoa nghiêm ghi: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống gì theo nguyên lý kinh Phật đã dạy, đời sau muốn được làm thân người thì nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm giới với năm thường của nhà Nho ở Trung Quốc nội dung giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

1. Nhân: Là nhân từ chúng ta làm được không? Đối với người, đối với vật chúng talòng nhân từ chưa?

2. Nghĩa: Đối với người, đối với sự vật, chúng tatận tâm làm tròn nghĩa vụ chưa? Tuy có thù lao, nhưng không xem trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù lao. Thù lao nhiều thì tôi làm nhiều, thù lao ít thì tôi làm ít, hạng người này không có nghĩa.

3. Lễ: Giữa người với người phải có lễ phép qua lại.

4. Trí: Nói đơn giảnlý trí, chẳng phải theo tình cảm mà làm việc.

5. Tín: Là tín dụng, chữ tín rất quan trọng là “không dối mình, không lừa người”. Tự lừa dối mình là lương tâm bị mê muội. Chúng ta thường nghe tục ngữ nói: “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm thì bàn đến chữ tín làm gì? Bên trong lương tâm mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.

Người nào phạm năm điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác.

Như tôi vừa nói, mọi người đều nói sau khi chết làm quỷ, trong sáu đường luân hồi, không đến đường khác mà cứ khăng khăng chọn đường quỷ, nhưng đã nói đến đường quỷ thì phải có lý của nó. Điều kiện của đường ngạ quỷ là tâm tham; tham danh tiếng, tham lợi dưỡng, tham sắc đẹp; đối tượng tham rất nhiều, chỉ cần nặng tâm tham là nghiệp nhân của đường ngạ quỷ.

Tâm nặng sân hận, ganh tỵnghiệp nhân của đường địa ngục. Không có trí tuệ, không phân biệt được thật-giả, chánh-tà, thiện-ác là nghiệp nhân của đường súc sinh. Tham, sân, si là nghiệp nhân của ba đường ác. Chúng ta tự xét mình có tham, sân, si không? Tham, sân, si, ý niệm này có nghiêm trọng không? Nếu như ý niệm này nặng thì chúng ta phải luôn cảnh giác. Nếu không cảnh giác thì tương lai của chúng ta sẽ tăm tối, chúng ta muốn nghĩ đến niệm Phật cầu sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc thì nhất định phải diệt tham, sân, si; siêng tu ba tư lương là Tín, Nguyện, Hạnh theo đúng lời Phật dạytu hành. Đời nay, chúng ta không để thời gian trôi qua uổng phí, nhân duyên đời này thù thắng không gì sánh bằng. Chúng ta thật sự gặp được Phật pháp, lại gặp được pháp môn Tịnh độ rất thù thắng. Duyên phận này không thể nghĩ bàn, trong bài kệ khai kinh ghi: “Trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được”. Cư sĩ Bành Tế Thanh ở đầu nhà Thanh nói: “Một ngày hiếm hoi khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Chúng ta đã gặp được rồi, nhân duyên thiện căn, phước đức đầy đủ; nếu như tự mình không nắm bắt để nó trôi qua thì thật là đáng tiếc.

Hôm nay, tôi tiếp tục luận bàn về một số chướng ngại trong sự tu hành. Đức Phật đích thực là bậc Nhất Thiết Trí; giống như tín đồ tôn giáothế gian ca tụng thần “việc gì cũng biết, cái gì cũng làm được”. Sau khi, Đức Phật nhập diệt đến nay khoảng hơn 2500 năm, những chướng ngại của chúng sinh tu học Phật pháp, vào thời kì mạt pháp; thuở xưa, khi Đức Phật giảng kinh, thuyết pháp đã từng nói việc này; nếu Ngài không phải là bậc Nhất Thiết Trí chân thật thì không nói được như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25736)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37931)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18778)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14342)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20176)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9560)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14419)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35671)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10710)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19781)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23267)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13416)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10796)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20305)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10663)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10018)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14930)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17744)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17674)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13241)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31242)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25856)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14019)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17568)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11032)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12346)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10514)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12333)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11823)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9665)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12399)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9252)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8530)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10002)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9790)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12087)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14515)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9944)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11244)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8351)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11017)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14169)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9964)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15276)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13147)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23152)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24104)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12638)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15499)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17858)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15138)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16620)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16211)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17747)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11651)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11675)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17923)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10847)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10560)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11388)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12127)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11095)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36482)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9011)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9732)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34795)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17338)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10273)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10516)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12244)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13705)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14740)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9201)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24934)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11699)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10367)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16011)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15640)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14591)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13064)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12501)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14629)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18420)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9610)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18597)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18677)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19108)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18937)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11866)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13383)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48033)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11109)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13605)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13102)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11133)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12620)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11080)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31865)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11736)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant