Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa 12 Lời Nguyện Niệm Phật

18 Tháng Hai 201400:00(Xem: 16009)
Ý Nghĩa 12 Lời Nguyện Niệm Phật


Ý NGHĨA 12 LỜI NGUYỆN NIỆM PHẬT


Thích Chân Tính

 ynghia12loinguyenniemphat

Nam mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật

Kính thưa quý Phật tử!

Hôm nay, quý vị về chùa Hoằng Pháp tu niệm Phật một ngày, trước khi vào thời khóa công phu, như thường lệ chúng ta có một giờ pháp thoại. Trong giờ pháp thoại sáng nay, chúng tôi xin nói về ý nghĩa của 12 lời nguyện niệm Phật. Mười hai lời nguyện niệm Phật này, chúng tôi vừa soạn ra. Trước khi giải thích nội dung của 12 lời nguyện niệm Phật, chúng tôi xin đọc để quý vị được nghe.

1. Kính lạy Phật Di-Đà,
Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài,
Hôm nay và mãi mãi.

2. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Cho trí sáng tâm khai.

3. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Sống an vui tự tại.

4. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Không ác ý với ai.

5. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Luôn nói lời từ ái.

6. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Không gây khổ cho ai.

7. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Hằng trì trai giữ giới.

8. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Luôn nhẫn nại khoan dung.

9. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Sắc tài không đắm nhiễm.

10. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Trừ phiền não trái oan.

11. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Trải lòng thương muôn loại.

12. Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Chí vãng sinh không phai.

Đây là 12 lời nguyện niệm Phật. Trong nội dung của 12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử chúng ta có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Bây giờ chúng tôi sẽ lần lượt giải thích nội dung của 12 lời nguyện niệm Phật này để quý vị được rõ.

Lời nguyện thứ nhất

"Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Hôm nay và mãi mãi."

Như quý vị cũng đã biết, Đức Phật A-Di-Đà là giáo chủ thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Trong kinh Vô Lượng Thọ có chép, Ngài vốn là một vị vua phát tâm xuất gia hiệu là Pháp Tạng Tỷ-kheo. Ngài tu học với Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Do vì thương chúng sinh chìm đắm trong ba cõi sáu đường, chịu biết bao nhiêu đau khổ trong vòng luân hồi sinh tử, Ngài đã tinh tấn tu hành, phát 48 lời nguyện để thanh lập thế giới Cực Lạc, nhằm tạo thắng duyên cho chúng sinh về đó tu tập. Thế giới Cực Lạc của Phật A-Di-Đà là thế giới rất vui, rất trong sạch không có các thứ khổ, các thứ ô nhiễm. Khi người nào sinh về đó sẽ không còn bị thoái chuyển, không còn bị sa đọa ba ác đạo. Nơi đó duyên ác dục nhiễm không có nên rất dễ tiến tu. Thế giới chúng ta đang ở gọi là thế giới Ta bà thuộc về dục giới, cho nên dục nhiễm rất nặng nề, con người khó có thể định tâm, khó có thể một đời thành tựu đạo quả. Như vậy, ở đây người Phật tử tu hành pháp môn niệm Phật là niệm Đức Phật A-Di-Đà, để mong cầu sau này về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà, để gieo nhân thành Phật.

Còn hiện tại, khi chúng ta niệm Phật là nhớ đến Đức tính cao quý, trí tuệ siêu việt, nhân cách hoàn hảo, đạo đức cao thượng và lòng từ bi vô lượng của Đức Phật. Phật là một hình ảnh cao đẹp nhất trên cuộc đời này. Nhớ đến hình ảnh Phật giúp thân tâm ta trong sạch, an lạchạnh phúc thật sự. Nếu chúng ta nhớ tưởng đến những hình ảnh khác như tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngon, ngủ kỹ, tuy có hấp dẫn, có hạnh phuc nhưng đó chỉ là thứ hạnh phúc ảo, hạnh phúc tạm bợ. Kết quả thường dẫn đến đau khổ sa đọa, dẫn vào vòng luân hồi lục đạo mãi mãi. Còn khi chúng ta niệm Phật, nhớ Phật, tâm được trong sạch, tất nhiên lời nói cũng sẽ trong sạchviệc làm cũng sẽ trong sạch. Nhờ ba nghiệp trong sạch không gây tạo ác nghiệp nên hiện tại chúng ta sống được an vui hạnh phúc, tương lai sinh về thế giới an vui của Đức Phật A-Di-Đà. Như vậy, chúng ta phát nguyện niệm Phật thường xuyên là để cho tâm hồn được trong sạch, đồng thời niệm Phật là gieo cái nhân để vãng sinh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà, cũng đồng với ý nghĩa thành Phật. Do vậy, khi sống chúng ta niệm Phật nhớ Phật; khi bỏ thân xác này chúng ta về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Cho nên, lời phát nguyện đầu tiên, từ nay cho đến mãi mãi, lúc nào chúng ta cũng niệm Phật, nhớ Phật. Chỉ có hình ảnh của Đức Phật là cao đẹp nhất trên cuộc đời này, người Phật tử cần phải nhớ, luôn luôn nhớ và mãi mãi nhớ. Vừa qua chúng tôi cảm nhận ý này và làm bài thơ:

Đẹp thay hằng nhớ Phật

hình ảnh đẹp nhất

Tôn quý trên đời này

Đẹp thay hằng nhớ Phật”.

Nếu chúng ta không nhớ Phật thì sẽ nhớ ma. Mà nhớ ma thì:

 “Ma đưa lối quỷ dẫn đường,

Chỉ tìm những lối đoạn trường mà đi”.

(Nguyễn Du)

Đoạn trường nghĩa là đứt ruột, chỉ cho sự đau đớn như bị đứt ruột.

Phật dẫn đường thì đi đến chỗ sáng suốt, an vui, hạnh phúc. Còn ma quỷ dẫn đường chỉ đi đến chỗ đoạn trường mà thôi. Đó là ý nghĩa của lời nguyện thứ nhất.

Lời nguyện thứ hai

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Cho trí sáng tâm khai”.

Đạo Phậtđạo trí tuệ. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật có nói “duy tuệ thị nghiệp”, có nghĩa là lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Đối với người chưa hiểu đạo, hoặc là đối với những người còn si mê thì lấy tiền bạc, lấy nhà cửa, lấy ruộng vườn, lấy những thứ vật chất trên thế gian này để làm sự nghiệp. Thế nhưng, họ không biết rằng những thứ đó là thứ tạm thời và chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi bước qua thế giới khác. Chỉ có sự nghiệp trí tuệ mới đem theo chúng ta từ đời này sang đời khác.

Người niệm Phật noi theo gương của Đức Phật. Mà Đức Phật, như chúng ta đã biết, Ngài từ bỏ tất ca sự nghiệp trên thế gian. Sự nghiệp của Đức Phật là vương nghiệp, tức là nghiệp làm vua, nhưng Ngài cũng từ bỏ hết tất cả. Bởi Ngài thấy rằng sự nghiệp đó là sự nghiệp giả tạm, cho nên Ngài đã rũ bỏ và đi tìm sự nghiệp trí tuệ cao thượng. Muốn được trí tuệ mình phải có định, nghĩa là tâm phải yên định. Tâm có định thì trí mới sáng. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni trong thời gian tu hành, Ngài đã đi sâu vào thiền địnhcuối cùng trí tuệ bừng sáng. Ngài có thể nhớ được tiền kiếp của mình từ một đời cho đến mười đời, trăm đời, ngàn đời và vô lượng đời. Không những Ngài thấy quá khứ của mình sinh ra, tên gì, ở đâu, con ai và không chỉ một đời, rất nhiều đời. Ngài còn nhớ và biết được những chúng sinh khác, không những một kiếp mà cũng rất nhiều kiếp sinh ra, tên gì, ở đâu, làm gì, chết như thế nào. Như vậy do đâu mà Đức Phật có được trí tuệ như vậy? Do tâm của Phật đã đạt đến một mức định rất cao. Khi tâm của mình định ít thì sáng ít, định nhiều thì sáng nhiều, càng định sâu thì tâm càng sáng. Điều này cũng dễ hiểu. Quý vị thấy một hồ nước. Hồ nước mà yên lặng càng lâu thì nó càng lóng tất cả các cáu bẩn xuống. Khi các cáu bẩn lắng xuống nước sẽ trong. Khi nước đã trong chúng ta có thể nhìn xuống nước thấy cả bầu trời, thấy cả mây bay, bởi vì tất cả mọi vật đều có thể ảnh hiện xuống đáy hồ là do nước đã trong.

Chúng ta phát nguyện niệm Phật, niệm thường xuyên, niệm mãi, lúc nào cũng nhớ Phật, tâm sẽ dần dần an định; khi tâm an định rồi sẽ có trí tuệ. Nhờ trí tuệ mà mình thấy rõ được thực tướng của vũ trụ, nhân sinh và từ đó mình mới không đắm nhiễm tất cả những vật chất của thế gian này. Trí tuệ chính là ngọn đuốc soi đường dẫn lối đưa ta ra khỏi đêm tối khổ đau của vòng luân hồi lục đạo. Cho nên, đạo Phật được gọi là đạo trí tuệ và người Phật tử chúng ta phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp, phải trau dồi trí tuệ. Chỉ có trí tuệ này mới đem đến cho chúng ta an vui, hạnh phúcgiải thoát. Đó là lời nguyện thứ hai.

Lời nguyện thứ ba

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Sống an vui tự tại”.

Người học Phật phải có một đời sống an vui và tự tại. Có những người trong cuộc sống rất đầy đủ vật chất, rất giàu có, thế nhưng cuộc sống vẫn chồng chất những đau khổ, những bất hạnh. Lúc còn tại thế Đức Phậtđệ tử của Ngài không có của cải, không có đồ cất chứa để dành, chỉ ba y và một bát, mỗi ngày ăn một bữa, khi ăn ôm bát đi khất thực. Khất thực ngày nào ăn ngày đó, không có để dành vật thực. Thế mà các Ngài vẫn an vui tự tại. Bởi vì các Ngài thấy rõ thực tướng của nhân sinhvạn vật là giả là không, nên không tham đắm, do không tham đắm nên an vui tự tại. Còn chúng ta là những người học Phật, phải lấy niềm vui Phật pháp để nuôi dưỡng thân tâm của mình. Muốn được an vui tự tại trong cuộc sống này, mình phải nhận thứcthế gianvô thường, thân người là giả tạm, không có cái gì là chắc thật. Do nhận thức được như vậy, cho nên chúng ta không có chấp trước. Sở dĩ người ta khổ, người ta không có niềm vui, không có hạnh phúc là do chấp trước. Chúng ta chấp có thân mình, rồi chấp những thứ của mình, hễ ai đụng đến mình, đụng đến cái của mình sẽ bực, sẽ khổ. Bây giờ mình hiểu, cái thân không phải của mình và tất cả những gì chung quanh mình cũng không phải của mình, như vậy sẽ không còn cái gì để chấp nữa, có thể xả được hết. Khi mình xả được thì dù ai có nói gì, làm gì cũng không có chấp trước, mà không có chấp trước thì không có đau khổ. Như vậy người niệm Phật là người luôn luôn phải tươi vui. Mình học Phật, đã nhận rõ được thực chất của nhân sinhvũ trụduyên sinh, là không thì không có lý gì chấp những thứ đó để phải đau khổ. Do vậy mà gương mặt của chúng ta lúc nào cũng phải tươi và vui.

Mình là người tu theo pháp môn niệm Phật để cầu về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Mà thế giới Cực Lạcmột thế giới rất vui, không có khổ. Vậy mình muốn về thế giới rất vui thì phải có cái “nhân” vui. Nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải tươi vui. Có cái nhân đó chúng ta mới có cái quả được sinh về thế giới Cực Lạc. Còn nếu chúng ta tu học Phật pháp, lúc nào cũng nhăn nhó, khó chịu, bực bội thì đó là kết quả của cái tâm phiền não, cho nên nó mới thể hiện ra nơi gương mặt, nơi hành động của chúng ta bực bội, khó chịu, nhăn nhó. Trước đây chúng tôi có làm mấy câu:

Ai mặt nhăn như khỉ,

Chết sẽ sinh làm quỷ;

Ai muốn sinh làm quỷ,

Mặt cứ nhăn như khỉ”.

Do tâm của mình phiền bực gương mặt mới nhăn, mới khó chịu, mà cái nhân đó là cái nhân của địa ngục, ngạ quỷ. Người học Phật mà gương mặt cứ u sầu, nhăn nhó, khó chịu người ta nhìn thấy ai mà dám tu theo Phật. Còn:

Ai mặt tươi như hoa,

Chết về Phật Di-Đà;

Ai theo Phật Di-Đà,

Mặt phải tươi như hoa”.

Như vậy, người niệm Phật phải luôn luôn có gương mặt tươi vui, mới xứng đáng là đệ tử Phật, mới có thể về thế giới của Phật A-Di-Đà được. Đó là ý nghĩa của lời nguyện thứ ba.

Lời nguyện thứ tư

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Không ác ý với ai”.

Ác ý ở đây có nghĩa là cái ý xấu, ý bất chính, ý hại người, ý chiếm đoạt v.v... Chẳng hạn như mình có ý nghĩ trộm cắp của người, ý nghĩ tà hạnh muốn xâm phạm đến tiết trinh của người, ý nghĩ sát sinh hại vật để thỏa mãn khẩu vị, đó là những ý ác. Hoặc là mình có những ý nghĩ xúi giục người ta vào con đường tội lỗi. Chẳng hạn như mấy ông rủ rê người ta ăn nhậu, đó cũng là ý ác. Bởi vì mình rủ rê người ta vào con đường ăn nhậucon đường hư thân, sa đọa. Hoặc có những người buôn bán xì ke ma túy, vì muốn có lời, cho nên xúi giục, dụ dỗ người ta hút để mình bán, đó cũng là ý ác. Hoặc mình xúi người ta ăn cắp, ăn trộm. Hoặc có người đến chùa quyến rũ, dụ dỗ Tăng Ni ra đời để chung sống với họ. Hoặc có ý tà phá phạm hạnh của người xuất gia, đều là ý ác cả. Người niệm Phật luôn nhớ đến Phật, mà Đức Phật không bao giờ có những ý nghĩ làm tổn thương, làm đau khổ, làm cho ai bị sa đọa. Người niệm Phật cũng vậy, phải nhớ đức hạnh của Phật và mình không được có ý nghĩ làm cho người khác đau khổ, không có ý nghĩ xúi người ta vào con đường dâm ô sa đọa, tán gia bại sản, mất mạng hoặc đi vào con đường tội lỗi. Đó là lời nguyện thứ tư.

Lời nguyện thứ năm

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Luôn nói lời từ ái”.

Lời từ ái là lời thương yêu. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni của chúng ta luôn nói lời thương yêu, hòa nhã, nhẹ nhàng, êm dịu, khiến cho người nghe được phấn chấn tinh thần, an vui, hạnh phúc, thêm niềm tin, nghị lực sống, giúp người ta hòa thuận với nhau, hướng đến chỗ tích cực làm lành, tinh tấn tu hành. Chúng ta là người học Phật, thường niệm Phật thì phải noi gương Phật, nói lời thương yêu. Ở trong cuộc sống của chúng ta rất cần những lời nói thương yêu, nhẹ nhàng, lời nói đưa người ta đến chỗ an vui hạnh phúc. Các cụ ngày xưa có câu:

Lời nói chẳng mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

Hoặc:

Khi ta thốt lời ra,

Nói sao cho ôn hòa;

Khiến người nghe cảm mến,

Ghi nhớ mãi không quên.

Miệng ta là hoa sen,

Một phen đã hé nở;

Tỏa hương thơm Phật pháp,

Gieo mầm giác cho người”.

Khi mình thốt lời ra, nói như thế nào để cho người nghe có được ấn tượng tốt, người ta nhớ mãi không quên. Cũng đồng thời một lời nói, mình biết khéo léo thì người nghe cảm thấy dễ chịu, có được niềm tin trong cuộc sống và người ta dễ dàng chuyển hóa những thói hư tật xấu; nhưng cũng lời nói nếu chúng ta nói thô lỗ, nói cộc cằn, nói mắng nhiếc, nói ác khẩu thì lời nói đó gây cho người ta chói tai, bực phiền và không có sức thuyết phục để cải hóa. Do vậy, một khi mình thốt lời ra, phải cố gắng làm thế nào để cho người nghe tiếp nhậnhoan hỷ. “Miệng ta là hoa sen, một phen đã hé nở”. Như quý vị cũng biết, hoa sen nó thơm, khi hé nở ra thì tỏa mùi hương làm cho người ta dễ chịu. Chúng ta đừng có mở miệng ra giống như hủ mắm thối, người ta sẽ chạy mất, không ai hoan hỷ ngửi mùi đó đâu, người ta chỉ thích ngửi mùi sen thơm thôi. Như vậy mỗi lần chúng ta mở lời ra, làm thế nào khiến cho người nghe cảm mến, khiến cho người nghe hoan hỷ, khiến cho người nghe được chuyển hóa những lỗi lầm, khiến cho người nghe có thêm niềm tin, thêm sức sống, thêm tinh tấn. Chúng ta đừng nói ra những lời làm cho người ta đau khổ.

Trong giáo lý đạo Phật có “Tứ nhiếp pháp”, là bốn phương pháp để cảm hóa lòng người. Trong bốn phương pháp đó, gồm có: bố thí nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếpđồng sự nhiếp. “Ái ngữ nhiếp” là dùng lời nói thương yêu, lời nói nhẹ nhàng, lời nói êm dịu để mà thu phục lòng người, nhiếp hóa mọi người. Do vậy, khi chúng ta đã phát nguyện niệm Phật, thường xuyên niệm Phật cần phải nói những lời thương yêu. Trong cuộc đời này rất cần những lời nói nhẹ nhàng, êm dịu, hòa nhã để giúp người ta cải hóa, giúp người ta thêm niềm tin trong cuộc sống. Cho nên, lời phát nguyện thứ năm nhắc nhở chúng ta cần phải nói lời từ ái đối với tất cả mọi người.

Lời nguyện thứ sáu

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Không gây khổ cho ai”.

Khi chúng ta niệm Phật, nhớ tới Đức Phật, không nên gây những điều phiền toái, đau khổ cho mọi người. Chúng ta có thể làm khổ người khác bằng ý nghĩ, lời nói và hành động. Thí dụ chúng ta có ý lấy của người, hoặc là có ý nghĩ lừa gạt tình cảm. Mình dụ dỗ người để thỏa mãn dục vọng, xong rồi mình trốn tránh trách nhiệm. Hoặc vì muốn thỏa mãn khẩu vị của mình mà tìm cách giết hại những chúng sinh. Hoặc chúng ta có những lời nói ác, lời nói thô lỗ khiến người nghe phải đau khổ.

Trong gia đình chúng ta, có rất nhiều những chuyện mà chồng, vợ hoặc con làm khổ cho nhau. Đôi khi chúng ta làm khổ cho nhau mà không biết, lại đổ lỗi cho ông trời. Chẳng hạn như người chồng đi làm về, bày ra ăn nhậu, ngày nào cũng ăn nhậu. Khi ăn nhậu say lại gây gổ với vợ, với con làm cho vợ con phải đau khổ. Có những người vợ, chồng đi làm rất cực khổ, mình ở nhà chỉ “ngồi lê đôi mách”, chưa kể đến những chuyện ngoại tình, làm cho chồng con phải tủi nhục đau khổ. Đôi khi trong gia đìnhhoàn cảnh khó khăn, người vợ cứ đua đòi may sắm, tiêu xài phung phí, hoặc chơi số đề gây khổ cho chồng cho con. Có những người con thích chạy theo thời mốt, quần nọ áo kia. Thay người ta may quần áo kiểu này mốt nọ mình cũng đòi may cho bằng được. Thấy người ta nhuộm tóc đỏ tóc vàng, mình cũng muốn nhuộm tóc đỏ tóc vàng. Thấy người ta có điện thoại di động, mình cũng muốn có điện thoại di động. Thấy người ta có xe Dream, mình cũng muốn có xe Dream. Chưa kể đến có những đứa con không chịu học hành, rồi quan hệ với những bạn bè xấu, bị rủ rê hút chích xì ke ma túy. Những thứ này gây khổ cho mình, gây khổ cho cha mẹ. Có những trường hợp, người mẹ lúc nào cũng đòi hỏi con tiền bạc, trong khi gia đình hoàn cảnh con cái khó khăn, bắt nó phải đưa; không đưa thì chửi, rồi nói bất hiếu, đó là chúng ta làm khổ con cái của mình. Có những người rất siêng năng đi chùa, đi hết chùa này đến chùa kia nhưng tiền không có, lại đòi hỏi con phải cho tiền, không cho cũng la rầy mắng nhiếc nó. Chúng ta đi chùa là điều rất tốt. Chúng ta càng đi nhiều nơi thì càng tốt, nhưng phải xem lại có tiền để đi hay không? Nếu mình có tiền để đi thì đó là một điều rất tốt và đồng tiền đó phải do chính mình làm ra, hoặc con cái hoan hỷ cho. Còn bây giờ hoàn cảnh của con cái khó khăn mà mình cứ bắt nó cho tiền để đi chùa, cúng chùa vô tình lại làm đau khổ cho con cái. Người đã tu hành, đã niệm Phật dứt khoát không làm khổ ai.

Trong đạo Phật chúng tagiáo lý “thiểu dục tri túc” - ít muốn và biết đủ. Khi mình biết đủ thì tất cả đều đủ. Còn chúng ta không biết đủ dù có nằm trên đống vàng cũng không thấy đủ. Do vậy mà pháp “thiểu dục tri túc” này, giúp chúng ta không làm khổ mình, khổ người. Chúng ta đã biết niệm Phật, nhớ Phật thì phải noi gương hạnh của Đức Phật. Quý vị thấy Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, từ bỏ hết tất cả địa vị giàu sang sung sướng, vợ đẹp con khôn để sống một cuộc đời rất đơn giản - tam y nhất bát, đi xin ăn, ngủ dưới gốc cây. Thế nhưng, sự nghiệp của Ngài cho đến bây giờ vẫn còn mãi. Còn chúng ta tham đắm đòi hỏi nhiều quá, chỉ làm khổ mình, khổ người. Người niệm Phật phải biết thiểu dục tri túc để khỏi phải làm khổ mình, khổ người. Đó là lời nguyện thứ sáu.

Lời nguyện thứ bảy

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Hằng trì trai giữ giới”.

Khi quý vị quy y, trở thành một người Phật tử phải giữ gìn năm giới. Nhờ có giới mới giúp cho quý vị trở thành một người có đạo đức, có nhân cách cao thượng. Vì giới là hàng rào an toàn để bảo vệ đời sống chúng ta được hạnh phúc, an vui. Giới cũng giống như một cái lan can của nhà lầu, nó cũng giống như một cái thành của chiếc cầu, hoặc là bờ đê của đồng ruộng. Quý vị cứ nhìn lên một cái nhà lầu, nếu không có lan can sẽ không bảo đảm mạng sống của những người ở trên đó, có thể bị té, bị rớt xuống lầu mất mạng. Khi chúng ta đi lên một cái cầu bắc qua con sông, nếu cái cầu đó không có bờ thành chúng ta rất lo sợ, rất dễ bị lọt xuống sông. Một thửa ruộng, nếu không có những bờ đê nước sẽ tràn ngập vào, làm hư cây. Như vậy giới là những cái hàng rào bảo vệ cho đời sống của chúng ta được an vui, hạnh phúc.

 Có người cho rằng khi chưa quy y, chưa thọ giới còn tự do, khi quy y giữ giới rồi lại bị ràng buộc. Theo chúng tôi câu nói này cũng đúng, mà cũng không đúng. Đúng là khi chưa quy y thọ giới họ tha hồ tự do sát sinh, tự do uống rượu, tự do tà hạnh v.v... Tự do như vầy có ngày sẽ hư thân mất nết, bị vào tù. Còn không đúng là do họ đã có thói quen sát sinh, thói quen uống rượu nhậu nhẹt… nên bây giờ giữ giới không sát sinh, không uống rượu họ cảm thấy khó chịu, cảm thấy ràng buộc. Còn đối với người không sát sinh, không uống rượu thì việc giữ giới không sát sinh, không uống rượu đâu có gì là khó chịu, đâu có gì là ràng buộc. Họ vẫn tự do đấy chứ!

Một người sống mà không giữ giới, người đó sẽ buông lung, phóng túng, không có việc ác nào họ không dám làm. Một gia đình mà không có tôn ti trật tự, kỷ cương, lễ nghĩa, gia đình đó sẽ mất hạnh phúc. Một xã hội mà không có luật pháp, xã hội đó sẽ loạn. Người Phật tử, khi quy y phát nguyện giữ 5 giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Năm giới này là năm giới căn bản để chúng ta hoàn thiện nhân cách. Người giữ trọn vẹn năm giới này sẽ không lo sợ tù tội, không lo sợ người ta hại mình. Bởi vì người giữ giới trong sạch là người không làm khổ ai, không làm tổn hại ai. Chúng ta không sát sinh là không giết ai; không trộm cắp là không lấy của ai; không tà hạnh là không xâm phạm đến trinh tiết của người; không nói dối là không lưa gạt người; không uống rượu say là không làm cho người khác phải phiền não lo sợ. Như vậy khi giữ giới trong sạch là mình không làm khổ mình và không làm cho người khác lo sợ. Khi giữ giới trọn vẹn là mình không sợ người và ngược lại người cũng không sợ mình. Bởi vì một người nào đó đến với chúng ta, họ biết chúng ta giữ giới trong sạch chắc chắn họ sẽ không lo sợ. Sống với một người mà giữ giới trong sạch chúng ta rất yên tâm. Khi quý vị thân cận một người chuyên môn ăn cắp thì quý vị rất lo - lo coi chừng họ móc túi mình. Hoặc quý vị thân cận những người hay sát sinh hại vật - coi chừng họ nổi cơn điên lên giết mình lúc nào không hay, cũng sợ lắm! Hoặc mình thân cận những người háo sắc tham dâm cũng lo sợ, sợ người này có ngày sẽ xâm phạm đến thân thể của mình. Cho nên, người giữ giới, ai đến gần cũng không lo sợ.

Khi chúng ta giữ giới trong sạch sẽ thể hiện ra ngoài oai nghi của mình - thân tướng trang nghiêm - trong sách thường nói “tướng hảo quang minh”. Đức Phật do giữ giới trong sạch, ba nghiệp thanh tịnh, cho nên Ngài phát ra tướng hảo rất quang minh, ai nhìn thấy cũng cảm mến. Sở dĩ thân tướng của chúng ta không được trang nghiêm, tướng hảo không quang minh là do ba nghiệp không thanh tịnh. Những người đã đạt được ba nghiệp thanh tịnh rồi thì họ có thân tướng rất trang nghiêm, ai nhìn cũng cảm thay mến, cảm thấy an lạc và hình như ai cũng thích đến gần. Bởi vì những người đó tỏa ra sự bình an, tươi mát, trong sạch. Khi chúng ta giữ giới cẩn thận, ba nghiệp thanh tịnh thì trời và người đều cung kính, đều muốn gần. Bởi vì một người có những tư tưởng xấu ác, phạm giới - phạm giới có nghĩa là xấu ác, thì tư tưởng đó là tư tưởng đen tối, nó hợp với tư tưởng của ma quỷ - ma quỷ thì tư tưởng đen tối. Những người phạm giới là những người có tư tưởng đen tối, cho nên giữa người đó với ma quỷ rất gần - vì cùng tư tưởng với nhau. Ví dụ như ở thế gian người tốt tìm người tốt chơi, người xấu tìm người xấu chơi, hoặc rau nào sâu nấy, nồi nào vung nấy. Cái gì hợp với nhau mới đi chung với nhau được. Còn những người giữ giới trong sạch thì tư tưởng của họ là tư tưởng sáng, tư tưởng trong phù hợp với các bậc Thánh. Cho nên, những người có được ba nghiệp thanh tịnh thì Chư Thiên Hộ Pháp thường ủng hộ. Quý vị thấy những bậc chân tu, giữ giới nghiêm mật, ba nghiệp trong sạch họ làm gì cũng được thành tựu, nhờ có giới đứcChư Thiên Hộ Pháp ủng hộ. Còn những người có tà tâm, Chư Thiên Hộ Pháp không đến gần, chỉ có ma quỷ đến gần thôi. Cho nên có câu:

Giữ giới đồng như băng tuyết sạch,

Gìn lòng cho được Thánh Hiền gần”.

Mình giữ giới làm sao cho được trong sạch cũng như băng, như tuyết, không có một tí tỳ vết nào. Gìn lòng cho được Thánh Hiền gần, là khi lòng mình trong sạch thì Thánh Hiền, chư Thiên Hộ pháp mới gần được.

Cho nên, người học Phật, người thường xuyên niệm Phật phải trì trai giữ giới. Trì trai ở đây có nghĩa là ăn chay. Người niệm Phật cần phải ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi, không gây thêm tội ác giết hại chúng sinh để bồi bổ sinh mạng của mình. Chúng ta ăn để sống, không phải sống để ăn. Vả lại thân người là giả tạm, khi chết cũng chỉ là cái xác thối không có giá trị gì cả.

Người học Phật không nên vì cái thân giả tạm này mà sát sinh hại vật để thỏa mãn khẩu vị của mình, đánh mất lòng từ bigây oán thù đền mạng trong vòng luân hồi lục đạo. Cho nên, trì trai giữ được năm giới đầy đủ trong sạchchúng ta hoàn thiện nhân cách, cũng là giới căn bản để bước lên con đường giải thoát. Đó là lời nguyện thứ bảy.

Lời nguyện thứ tám

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Luôn nhẫn nại khoan dung”.

Chữ “nhẫn nại” là chịu đựng. “Khoan dung” là tha thứ. Chịu đựng, có những người chịu đựng để tha thứ, nhưng có những người chịu đựng để trả thù. Người học Phật phải thực hành chịu đựng để tha thứ, đừng nên chịu đựng để trả thù. Thí dụ như có một người chửi rủa, gây gổ với chúng ta, chúng ta đang ở trong thế kẹt, vì người ta đông quá, người ta chửi mình, lấn hiếp mình thôi thì chịu nhẫn nhục, nhưng lát nữa về xách dao đến chém người ta. Có nghĩa là mình nhẫn nhục chịu đựng, nhưng chịu đựng lúc đó để rồi có cơ hội sẽ trả thù. Còn người học Phật chúng ta chịu đựng, mà chịu đựng trong tha thứ. Khi có người mắng nhiếc, hại mình, mình lấy lòng từ bi thương xót họ. Trước hết mình phải coi tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc, cha mẹ, anh em. Thứ hai là chúng ta phải thương họ. Thương họ như thế nào? Thương họ không biết đến nhân quả. Bởi vì theo luật nhân quả, anh hại người thì anh lãnh lấy quả báo, ác nhân thì ác báo, gieo gió sẽ gặt bão. Bây giờ người ta hại mình, mắng nhiếc mình, chửi rủa mình, mình lại thương người ta, thương người ta đang gieo nhân xấu để rồi phải gặt quả xấu. Cũng giống như cha mẹ thương đứa con lầm lỡ, chúng ta phải có tình thương như vậy. Chúng ta chịu đựng để mà tha thứ, chứ không phải chịu đựng để trả thù.

Trong kinh Phổ Môn, Đức Phật cũng có nói câu: “Từ nhãn thị chúng sinh”, nghĩa là dùng con mắt thương yêu nhìn chúng sinh.

Chúng ta phải có một tâm từ như vậy.

Lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan;

Lấy oán báo oán, oán oán chất chồng”.

Đây là một câu trong kinh Pháp Cú, rất có giá trị. Khi một người đối xử tệ với chúng ta, chúng ta luôn luôn lấy lòng từ tha thứ cho họ, tự nhiên một ngày nào đó tất cả những oán thù sẽ tiêu tan. Còn nếu người ta gây thù mình, mình gây thù lại, như vậy thù qua thù lại, oán oán càng chất chồng, không những đời này mà kéo dài cho đến các đời khác. Chúng ta hãy bắt chước cây trầm hương, người ta dùng búa chặt nó, nó tỏa hương thơm cho cây búa. Là người Phật tử, khi đã phát nguyện niệm Phật, thường xuyên niệm Phật, phải có tâm nhẫn nại, chịu đựng những thử thách, những lời thóa mạ của người khác và mình phải biết rải tâm từ tha thứ, cầu nguyện cho những người đó ý thức được việc làm sai trái, để họ đừng tiếp tục gây thêm khổ đau cho người khác và cũng chính là không gây khổ đau cho họ. Bởi vì “ngậm máu phun người, miệng mình dơ trước”, hoặc “phun nước miếng len trời, nước không tới trời mà trở lại rơi vào mặt mình”. Như vậy là lời nguyện thứ tám, nhắc nhở chúng ta phải có tinh thần chịu đựngtha thứ. Đó là lời nguyện thứ tám.

Lời nguyện thứ chín

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Sắc tài không đắm nhiễm”.

Sắc tài này nằm trong ngũ dục: tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi, ăn ngon, ngủ kỹ, năm thứ này làm cho người ta đắm nhiễm, đưa đến chỗ đau khổ và sa đọa. Sắc dục là một thứ ham muốn rất mạnh của tất cả chúng sinh trên thế gian này. Đối với con người chúng ta, khi lớn lên có hiểu biết một chút, bắt đầu đã có những suy nghĩ về vấn đề sắc dục và đi tìm đối tượng để thỏa mãn. Cho đến khi chết người ta vẫn chưa buông bỏ tâm niệm về sắc dục. Có những người biết dừng lại thì tốt, nhưng có những người không biết dừng lại coi như thân tàn danh bại. Người đắm sắc sẽ gây tai hại về sức khỏe và tuổi thọ. Người mà đắm mê sắc dục sẽ mất đi năng lượng, hay nói cách khác là mất đi sinh lực, tức là sức sống của con người. Người tham muốn sắc dục quá độ sinh lực bị mất đi và sẽ dẫn đến bịnh tật, chết yểu. Ví như một thân cây nhựa sống mất hết sẽ úa tàn và chết khô. Đối với Phật giáo, tham đắm sắc dục cũng là nguyên nhân đưa người ta đến chỗ luân hồi sinh tử đau khổ mãi mãi. Ngày xưa, những ông quan, những ông vua hay những người đắm sắc, thường hay bị mắc chứng bịnh “hoa liễu”. Người thời bây giờ nếu đắm mê sắc dục thì có nguy cơ bị nhiễm HIV/AIDS. Một thứ bệnh nan y cho đến nay chưa có thuốc chữa trị.

Thời nay, khoa học đã giúp cho người ta có những phương tiện để tránh những sự lây nhiễm qua đường sắc dục. Đó là một điều rất tốt. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi, đây cũng là một phương tiện để giúp họ dễ dàng sa đọa. Ngày xưa, một cô gái mới lớn lên nếu không giữ gìn trinh tiết, quan hệ tình dục trước hôn nhân có thể dẫn đến hậu quả là có thai. Đó chính là một hình phạt rất nặng nề, làm tổn thương nhân phẩm, danh dự của bản thângia đình, cho nên người ta rất sợ và tìm mọi cách để giữ mình, không dám quan hệ bừa bãi. Ngày nay, nhờ có những phương tiện giúp người ta tránh thai, họ không cần giữ gìn tiết trinh gì nữa, cứ tha hồ thỏa mãn sắc dục. Do vậy, chúng ta thấy ở các nước phương Tây, có những học sinh đi học ở nhà trọ, mới 14-15 tuổi, nam nữ đã có vấn đề quan hệ sắc dục với nhau. Nhờ có phương tiện tránh thai nên họ cứ thỏa mãn sắc dục mà không sợ. Do vậy, người ta dễ buông lung phóng túng. Đối với nam giới nhờ có phương tiện bảo vệ tránh nhiễm HIV/AIDS nên họ tha hồ có bồ nhí, tha hồ đi bia ôm. Nếu như khoa học chế tạo những phương tiện tránh thai, phương tiện bảo vệ tránh nhiễm HIV/AIDS, kết hợp với nhà trường giáo dục người ta ý thức được sắc dục quá độ sẽ đánh mất nhân phẩm, tổn thương đạo đức, tiêu hao sức khỏe dẫn đến bệnh tật, chết yểu. Kết hợp giáo dục và khoa học như vậy sẽ giúp người ta ý thức được tham đắm sắc dụctai hại, nhờ đó sẽ tránh được tình trạng buông lung quan hệ bừa bãi. Theo chúng tôi thấy rằng, việc này cần phải được quan tâm giáo dục cho thanh thiếu niên hiểu rõ. Nếu không giáo dục người ta không ý thức và sẽ dễ dàng dẫn đến chỗ đắm sắc sa đọa.

Kinh Pháp Cú, Đức Phật có nói:

Ai hàng phục được ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ sẽ rụng tàn như nước giọt lá sen”.

Nếu người nào hàng phục được ái dục, cũng giống như là nước giọt trên lá sen, cái khổ sẽ không thể có đối với người vô dục.

Hoặc câu:

Thắng được thiên binh vạn tướng chưa phải là chiến công oanh liệt; thắng được lòng mình mới thật là chiến công oanh liệt nhất”.

Vậy người niệm Phật phải luôn nhớ Phật và thấy được tác hại của sắc dục, không đắm nhiễm vào sắc dục.

Thứ hai là “tiền”.

Tiền bạc mình tạo ra,

Để trao đổi lại qua;

Ta phải làm chủ nó,

Chia sớt người khốn khó”.

Đồng tiền là do con người tạo ra, để làm vật trao đổi trong cuộc sống, nó giả không phải là thật, chết chúng ta không thể đem theo nó được, nhưng nếu chúng ta không biết làm chủ nó, để nó làm chủ sẽ dẫn đến con đường đau khổtội lỗi. Vì đồng tiền mà có những người con dám giết cha. Cũng vì đồng tiền mà trong gia đình anh em bất hòa với nhau, chém giết nhau, kiện cáo nhau. Cũng vì đồng tiền mà người ta phải tự tử. Có người bị mất tiền tiếc quá phải tự tử. Cũng có những người vì đồng tiền mà thân bại danh liệt. Điều này quý vị có thể thấy được qua vụ án Năm Cam. Trong vụ án này, một số quan chức của nhà nước, những người có công rất lớn đối với cách mạng, đối với đất nước. Thế nhưng, cũng vì đồng tiền mà họ làm mất đi phẩm chất đạo đức, nhúng tay vào vòng tội lỗi, kết quả phải bị tù tội, thân bại danh liệt. Chúng ta đã thấy rõ ràng. Vì đồng tiền mà những thanh niên đi cướp của, giết người. Cũng vì đồng tiền mà những cô gái phải đem thân đi bán. Như vậy tiền bạc và sắc đẹp là hai thứ ham muốn, nó dẫn chúng ta đến chỗ đau khổ, sa đọa. Do vậy mà người niệm Phật biết rõ tai hại của sắc dục, tiền bạc không nên tham đắm. Đó là ý nghĩa của lời nguyện thứ chín.

Lời nguyện thứ mười

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Trừ phiền não trái oan”.

Phiền não là những thứ làm cho chúng ta bực bội, khó chịu. Trong đó gồm có tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ v.v... Do phiền não mà mình gây tạo nghiệp. Vì tạo nghiệp cho nên mới có oan trái nhiều đời nhiều kiếp. Thí dụ như chúng ta vì tham ăn mà giết hại biết bao nhiêu chúng sinh. Khi chúng ta giết một chúng sinh là đã kết oán thù, oan trái. Mình giết kẻ khác tất nhiên phải nợ máu. Nợ máu phải trả bằng máu. Mình giết họ rồi, một ngày nào đó họ giết lại. Vòng oan trái này nối nhau nhiều đời nhiều kiếp. Ngày hôm nay chúng ta phát nguyện niệm Phật, thường xuyên niệm Phật để phiền não tiêu tan và oan trái của mình được cởi mở. Mình có niệm Phật như vậy thì tâm mới định và mình mới không gây tạo thêm nghiệp ác, tức là không tạo thêm nhân ác, do vậy mà dần dần những oan trái sẽ được cởi mở.

Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, gây oan trái với biết bao chúng sinh. Quý vị cứ suy nghĩ kỹ. Một đời này chúng ta giết hại biết bao nhiêu chúng sinh, biết bao nhiêu chúng sinh oan trái với mình. Rồi trong vô lượng kiếp chúng ta giết hại bao nhiêu chúng sinh nữa, như vậy oan trái này chồng chất lên oan trái kia. Nếu chúng ta không niệm Phật, không nhất tâm thì oan trái này không được cởi mở. Khi chúng ta niệm Phật, một mặt để cho phiền não dứt trừ, mặt khác nhờ niệm Phật mà những oan trái thấy mình tu hành, cầu nguyện cho chúng được siêu thoát thì chúng cũng hoan hỷ và không còn oán thù mình nữa. Do vậy, người niệm Phật, thường xuyên niệm Phật để cho tâm an định, phiền não dứt trừ, oan trái được cởi mở. Đó là lời nguyện thứ mười.

Lời nguyện thứ mười một

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Trải lòng thương muôn loại”.

Người niệm Phật không chỉ thương mình mà còn phải thương mọi người. Mình niệm Phật, trước hết là thương mình. Vì thương mình cho nên mới niệm Phật, để mau được giải thoát. Thương người là mình muốn cứu độ họ cũng được giải thoát. Nói cách khác, chúng ta với mọi người đều có mối quan hệ thân thiết với nhau trong vòng luân hồi sinh tử. Họ đều là bà con, cha mẹ quyến thuộc với chúng ta cả. Đã là thân thuộc cha mẹ anh em của chúng ta, họ đau khổ, sa đọa thì ta cũng không yên. Như vậy mình phải có lòng thương, muốn cho họ được giác ngộ, được an vui, được giải thoát. Và lòng thương này, khi chúng ta trải ra thì tự nhiên mọi người đều hưởng được từ điển hay gọi là điển lành.

Ngày xưa, lúc Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni vào trong rừng để tu tập. Thời buổi đó, quý vị biết rằng, các loài thú như là cọp, sư tử, chó sói … những thứ ăn thịt người rất nhiều. Thế nhưng, tại sao Ngài ở trong rừng mà không bị các loài đó ăn thịt? Là do Ngai có một tâm từ rất mạnh. Tâm từ này có sức cảm phục, cảm hóa không những người mà cả loài vật hung dữ.

Gần đây, ở bên Trung Quốc, có Hòa thượng Quảng Khâm. Trong tiểu sử ghi, Ngài lên một ngọn núi tu. Lúc lên núi Ngài thấy một cái hang liền vào trong đó ngồi tu. Không ngờ hang đó là hang của hổ. Khi Ngài ngồi tu được nửa ngày hay một ngày gì đó tự nhiên hổ xuất hiện. Ngài đang ngồi tham thiền niệm Phật bỗng ngửi có mùi tanh, liền mở mắt ra thấy con hổ đứng trước mặt. Ngài cũng bình tĩnh và nói “A-Di-Đà Phật”. Con hổ nghe Ngài nói tự nhiên hoảng hốt bỏ chạy ra ngoài. Nó hoảng chạy ra một lúc rồi trở vào. Chắc nó nghĩ rằng chỗ đó là chỗ ở của nó, tại sao ông sư này lại chiếm lấy và có lẽ nó quay lại với ý định ăn thịt Ngài. Khi nó quay trở vào, Ngài bèn nói: “Ngươi hãy hoan hỷ cho ta mượn tạm chỗ này tu hành, khi ta đắc đạo sẽ độ cho nhà ngươi”. Ngài nói xong, nó gật đầu bỏ đi. Hôm sau nó trở lại, đi lui đi tới một thời gian rồi dắt cả hổ vợ hổ con đến chơi giỡn với Ngài. Chúng ta thấy những bậc chân tulòng từ rộng lớn, tự nhiên cảm hóa được những con vật hung dữ, không ăn thịt họ.

Còn ở Việt Nam chúng ta, chúng tôi có nghe nói trước đây trên núi Tà Cú, có vị tổ tên là Hữu Đức. Năm đó hình như năm một chín bốn mấy hay năm mấy gì đó. Ngài lên núi Tà Cú, chỗ mà hiện nay chúng ta đi du lịch chiêm bái tham quan. Chúng tôi cũng có lên đó một lần, khoảng năm 1981. Ở trên đó có một bức tượng Phật nằm rất lớn. Chúng tôi được biết tổ Hữu Đức lúc lên đó tu hành, cọp cũng đến, rồi Ngài cảm hóa và nó cũng không ăn thịt Ngài. Quý vị thấy những bậc chân tu, có một lòng từ rộng lớn thì tự nhiên có sức cảm hóa thú vật.

Hiện nay, quý vị sống trong khu vực của mình, nếu biết trải lòng từ rộng rãi, thương yêu mọi người, giúp đỡ mọi người, gần gũi mọi người thì chúng tôi tin chắc rằng quý vị sẽ được mọi người thương yêu. Những người có lòng từ rộng lớn thương yêu cả loài vật, loài vật cũng mến yêu họ. Cho nên, người niệm Phật phải cố gắng mở rộng lòng thương. Nhờ có lòng thương này mà mọi người với ta không có sự ngăn cách, luôn luôn gần gũi và thương yêu nhau. Tình thương đó phải như ánh nắng mặt trời sưởi ấm muôn loại trong giá rét mùa đông. Đó là ý nghĩa lời nguyện thứ mười một.

Lời nguyện thứ mười hai

Kính lạy Phật Di-Đà,

Con nay xin phát nguyện,

Thường niệm danh hiệu Ngài,

Chí vãng sinh không phai”.

Câu cuối cùng này chúng tôi gút lại là “chí nguyện vãng sinh”. Từ “vãng sinh” có nghĩa là sinh đến. Vậy sinh đến đâu? Sinh đến thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Chúng ta thường nói là “vãng sinh Lạc quốc”. Tại sao chúng ta phải về đó? Người tu học Phật pháp trước hết phải thấy rõ cái khổ sinh tử và xem việc sinh tử là việc lớn. Từ vô thủy kiếp đến nay chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi, kiếp đọa địa ngục, kiếp làm ngạ quỷ, súc sinh, kiếp thì sinh lên cõi A-tu-la, cõi người, cõi trời, xoay quanh trong 6 cảnh giới này. Mà 6 cảnh giới này, hết 5 cảnh giớiđau khổ, còn cảnh giới trời tuy không khổ nhưng hưởng hết phước vẫn trở lại 5 cảnh giới kia, cho nên nói khổ là vậy. Muốn thoát khỏi sinh tư trong các cảnh giới này phải về thế giới Cực Lạc của Phật A-Di-Đà. Vì thế giới Phật A-Di-Đà không có các thứ khổ. Sinh về đó sẽ không còn thoái chuyển tâm Bồ-đề và nhờ các duyên tốt tu tập dễ thành tựu đạo quả. Đó là lý do thứ nhấtchúng ta cần phải vãng sinh về thế giới Cực Lạc.

Lý do thứ hai là muốn sớm thành tựu đạo quả Bồ-đề mà vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Mục đích của người học Phật là để thành Phật. Mà muốn thành Phật phải đoạn trừ tham, sân, si, ái v.v… dứt sạch hết các phiền não. Thế nhưng, một đời này chúng ta không dễ gì đoạn trừ hết phiền não, thành tựu đạo quả. Nếu không thành tựu quả vị Phật trong kiếp này, chúng ta phải tiếp tục luân hồi, hoặc trở lại làm người tu tiếp, hoặc sinh lên cõi trời hưởng phước. Do phước báo tu tập của kiếp này, kiếp sau làm người sẽ được giàu sang, khi giàu sang sẽ tham đắm hưởng thụ quên mất sự tu, rồi lại tạo thêm ác nghiệp, chắc chắn kiếp thứ ba chúng ta sẽ bị đọa. Do vậy, để đảm bảo việc tu hành không bị thoái chuyển, chúng ta phải quyết chí vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Trong lời nguyện thứ 11 Đức Phật A-Di-Đà có nói: “Nếu tôi được thành Phật mà trời người trong cõi nước tôi không trụ vào chánh định tụ, mãi cho đến khi chứng quả Niết-bàn, tôi không chịu thành Phật”. Đó là lý do thứ hai.

Lý do thứ ba vì thương chúng sinh chìm đắm trong biển khổ sinh tử mà mong muốn vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Ở tại thế gian, trong một gia đình, người cha người mẹ thương con phải lo làm ăn, tạo ra của cải để lo cho con ăn học, lo cho con có sự nghiệp. Người tu hành nghĩ đến chúng sinh còn đang chìm đắm trong biển khổ thì phải ráng lo tu, sớm thành tựu đạo quả để cứu độ chúng sinh. Chúng ta về thế giới Cực Lạc không phải để hưởng thụ mà vì muốn mau chóng thành tựu đạo quả, để trở lại Ta bà cứu độ chúng sinh. Ví như một học sinh sống trong một đất nước nghèo khổ, đi ra nước ngoài du học mong muốn sớm thành tài để trở về quê hương giúp dân giúp nước được giàu có, được ấm no hạnh phúc. Cho nên, người niệm Phật phải lập chí vãng sinh. “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta cứ vững như kiềng ba chân”. Khi ta đã có định hướng tu học theo pháp môn niệm Phật phải một lòng một dạ quyết chí một đời vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Về Cực Lạc để làm gì? Để thành Phật, để thoát khỏi luân hồi lục đạo, để cứu độ chúng sinh. Đó là ý nghĩa của lời nguyện thứ mười hai.

Trong 12 lời nguyện niệm Phật này, có lẽ quý vị thắc mắc tại sao chúng tôi không nói đến pháp tinh tấn. Mà tinh tấn lại là một pháp rất cần thiết để thành tựu đạo quả. Thật ra nếu quý vị đọc kỹ thì trong những bài kệ này, có chứa đựng pháp tinh tấn bên trong. Chúng tôi nêu ra để quý vị thấy. Câu: “Con nay xin phát nguyện, thường niệm danh hiệu Ngài”. Chúng ta thường niệm, đó là tinh tấn. Yếu tố tinh tấn này rất cần thiết. Không có tinh tấn thì chúng ta không thành tựu được đạo quả. Do vậy mà trong đây chúng tôi nhắc đi nhắc lại câu: “Con nay xin phát nguyện, thường niệm danh hiệu Ngài”. Thường niệm Phật là lúc nào chúng ta cũng tinh tấn, cũng tỉnh giác, cũng sống trong chánh niệm. Nhờ chánh niệm, tỉnh giácchúng ta làm chủ được thân khẩu ý, làm chủ được cuộc đời của mình, sáng suốt thẳng tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.

Tóm lại: Chúng tôi soạn ra 12 lời nguyện niệm Phật này để giúp cho quý vị ý thức được đường hướng tu tập của mình về pháp môn niệm Phật. Nếu thường xuyên đọc và thực hành theo những lời nguyện đó ta sẽ có được an vui hạnh phúc, không chỉ cho mình và cả cho mọi người. Tương lai chắc chắn sẽ vãng sinh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Đó là ý nghĩa của 12 lời nguyện niệm Phậtchúng tôi vừa trình bày cho quý vị.
Nam mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật!

Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Tám 201522:23
Khách
mot bai hoc cua thay that y nghia cho chung con .Con kinh chuc thay manh khoe
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18602)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16135)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29954)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25534)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21669)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17861)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20856)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26379)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33404)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52238)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22925)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23452)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39706)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21836)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22438)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6892)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22773)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69882)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44092)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23146)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35100)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44158)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42960)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44489)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24955)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24411)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39285)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39300)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17295)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18086)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19307)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35729)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24274)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19650)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20450)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18353)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19068)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18982)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17521)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19373)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30916)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19245)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20572)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19609)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19809)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29887)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17870)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19451)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19925)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58833)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24445)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23568)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39817)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26755)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40829)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22921)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22976)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21641)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18666)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22622)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21106)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19264)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20962)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20375)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30602)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20225)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17498)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16632)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16910)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14988)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14877)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22919)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16086)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16252)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15297)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26191)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17241)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15853)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19840)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17731)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14728)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14788)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19181)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15179)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33110)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17533)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19181)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21865)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23089)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16674)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16545)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16610)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23047)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26459)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12789)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29581)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27789)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25998)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18492)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15614)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant