Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 6

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10420)
Phần 6


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 6)


Pháp Sư Tịnh Không



10. Tín Huệ Bồ tát, Nguyện Huệ Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát
Ba vị Bồ tát này đại biểu ba điều kiện tu hành của Tịnh Tông “Tín-Nguyện-Hạnh”.

Hành giả phải thật tin tưởng Phật A Di Đà và Phật Thích Ca Mâu Ni. Kinh Vô Lượng Thọ, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phật A Di Đà nói qua y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc trong đó có tánh, tướng, lý, sự, nhân, quả, chúng ta thảy đều tin tưởng, mỗi câu mỗi chữ đều tin sâu không nghi, như vậy mới gọi là tín. Không tín thì dù niệm Phật nhiều, tu hành nhiều nhưng vẫn không được vãng sanh. Cái tin phải thành thật không khách sáo; có thể xem như mê tín. Mê tín nếu thật mê thì có thể vãng sanh, giả mê vẫn không thể vãng sanh.

Thật mê là không có hai niệm, bảo niệm Phật A Di Đà thì trong lòng chỉ có Phật A Di Đà, một ngày từ sớm đến tối chỉ Phật A Di Đà, ngoài ra không có bất kỳ vọng niệm nào khác. Như vậy mới có thể vãng sanh, thậm chí vãng sanh phẩm vị tương đối cao. Còn người tuy tin tưởng nhưng một ngày từ sớm đến tối thường nghĩ tưởng xằng bậy, còn nhiều phân biệt chấp trước, còn thị phi nhân ngã, tham sân si mạn xen tạp thì không thể vãng sanh. Người vãng sanh nhất định phải tin tưởng trọn vẹn từng câu từng chữ trong bộ kinh này và thực tiễn ngay trong cuộc sống.

Ở nơi đây tôi diễn giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ không giới hạn thời gian, giảng hai ba năm cũng không hề gì. Các vị đồng tu cùng đến nghe, không nhất thiết phải nghe hết. Nghe một lần thì thọ dụng một lần, một lần hiểu, một lần ghi nhớ, một lần có thể phụng hành thì cả đời thọ dụng khôn cùng tận, huống hồ người đến nghe vào mỗi kỳ giảng, lợi ích vô biên. Đó cũng đều do thời tiết nhân duyên mà được. Bản thân tôi cũng chưa bao giờ nghĩ mình có thể giảng tỉ mỉ đến như vậy. Chắc chắn do Tam Bảo gia trì, không phải sức người. Người nghe được hoan hỉ cũng là do được Tam Bảo gia trì. Không có Tam Bảo gia trì, có nghe cũng sẽ không hiểu. Do đó khi chân thật nghe hiểu thấu suốt, được Phật Bồ tát gia trì, chúng ta có thể thấy mình cùng thế giới Tây Phương, Phật A Di Đà có duyên rất sâu. Chỉ cần đem thiện căn phước đức vô lượng kiếp của chính mình đào tìm được, ngay đời này chúng ta liền có thể vĩnh thoát luân hồi, liền có thể thành Phật làm tổ, tham gia trở thành hội viên câu lạc bộ A Di Đà Phật, hạnh phúc biết bao, tự tại dường nào.

Cho nên tín không đơn giản, năm xưa tôi học Phật bảy năm mới xuất gia. Khi vừa xuất gia thì liền đến Phật học viện giảng kinh. Sau đó hai năm mới thọ giới, thọ giới rồi đến Đài Trung bái lạy thầy cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Vừa thấy mặt tôi, thầy liền chỉ vào và nói: “ông phải tin Phật”, tôi ngẩn người không hiểu. Thầy liền giải thích, có rất nhiều người xuất gia từ nhỏ đến tám mươi tuổi vẫn chưa tin Phật. Họ cũng biết giảng kinh như hoa trời rơi rụng, nhưng những gì Phật nói trong kinh một chữ họ cũng không làm được. Đó là không tin Phật. Vì không có tín nên cũng không có nguyện hạnh, làm sao có thể vãng sanh? Cho nên thầy nói “việc này vô cùng quan trọng”, lão sư đặc biệt nhắc nhở cảnh sách, nhất định phải tin tưởng. Chân thật có thể lý giải, có thể thông suốt, có thể y giáo phụng hành mới gọi là tín. Hay nói cách khác “Tín, Nguyện, Hạnh” tuy một mà ba, tuy ba mà một. Nói tín mà không có nguyện, hạnh, vậy tín đó là giả. Cũng vậy nói có nguyện, nhưng không có tín, hạnh thì cái nguyện này cũng là giả. Một ngày niệm Phật A Di Đà nhưng nếu không có tín, nguyện thì việc niệm Phật A Di Đà cũng là giả. Trong tín nhất định phải có nguyện hạnh, trong nguyện nhất địnhtín hạnh, trong hạnh nhất định phải có tín nguyện. Như cái đảnh ba chân, thiếu một cái thì ngã đổ.

Do đó đối với từng câu từng chữ trên kinh này hành giả phải thâm tín không hoài nghi, quyết không trái phạm. Phật dạy chúng ta làm thì nỗ lực mà làm; Phật nói những gì không nên làm thì quyết không nên làm, vậy mới được gọi là “chân tín, chân nguyện, chân hạnh”, mới là học trò tốt của Phật A Di Đà, được Phật A Di Đà hộ niệm. Khi được Phật A Di Đà hộ niệm, hành giả được tất cả chư Phật đều tôn kính, đồng ngưỡng mộ, “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Còn gì mà không chịu buông bỏ?

Tiền tài, của cải, nhà đất của chúng ta bị người khác xâm chiếm, cướp đoạt, người chân thật tín nguyện hạnh sẽ không lo lắng. Phật thường dạy chúng ta buông bỏ thì đây chính là lúc để buông bỏ. Khi chưa có người đến cướp đoạt, ta không thể buông bỏ; khi vừa bị đoạt lấy, đó chẳng phải là tăng thượng duyên? Một lòng niệm Phật coi không hề có việc gì. Người ta đến giúp ta nâng cao thêm một bước, cho nên ta không những không hận người cướp đoạt, trái lại còn cảm kích, cảm ân, vì không có họ, ta rất khó xả. Xả ra tức là tiến gần thêm một bước với Phật Di Đà. Thử nghĩ “Mọi thứ không thể đem, chỉ có nghiệp theo mình”. Đến lúc lâm chung không ai mang được thứ gì, phải xả hết, thế thì hiện tại xả không phải càng tốt hơn sao?

Kinh Phật nói, đồ vật của chúng ta bị kẻ khác cướp thì đồ vật đó trở thành của họ, chúng ta không thể tìm lại được. Nếu cố tình tìm về coi như chúng ta đã phạm giới trộm cắp. Họ cướp của ta nghĩa là họ phạm giới trộm cắp, nếu ta tìm nó trở lại thì chính ta lại phạm giới trộm. Cho nên sau khi xả thì không nên nghĩ nữa, họ trộm có nhân quả của họ, chúng ta giựt trở lại sẽ phải đọa lạc, do sự và lý tương đối vi tế, không thể không biết. Người thế gian đều cho rằng bị giựt thì phải giựt lại mới là hợp lý, thế nhưng Phật nói không hợp lý, chúng ta phải tỉ mỉ suy xét đạo lý Phật dạy, nhất định phải tuân thủ giáo huấn.

Một lần tôi đến đây từ Úc châu, buổi tối hôm đó, Nha Long cúp điện mấy tiếng đồng hồ, nơi cửa tam quan có ba cây Tiên Nhân Chưởng nở ra hai mươi mấy đóa hoa. Việc này trước đây chưa từng thấy vì cây Tiên Nhân Chưởng rất hiếm nở hoa. Lần này hoa nở màu trắng giống như hoa sen. Tôi liền bảo pháp sư Ngộ Hạnh chụp hình. Thầy đã chụp hai mươi mấy tấm, sau đó rửa ra. Thật ngạc nhiên trong hình không hề thấy hoa. Tôi bảo mọi người xem có ngộ điều gì chưa. Dường như không ai ngộ. Tôi nhìn hoa này, liền cảnh giác cao độ, vạn pháp vô thường, sát na sanh diệt. Về sau vĩnh viễn cũng không còn thấy tấm phim đó nữa. Chính ngay lúc ấn máy chụp hình, ngay sát na đó ta mới biết sinh mạng ngắn ngủi đến như vậy thì tại sao phải tạo nghiệp. Sinh mạng chúng sanh chúng ta chính là một sát na, chúng ta gọi là tướng tiếp nối. Kinh Kim Cang nói: “như sương cũng như chớp”, “như chớp” là nói chân tướng, “như sương” là nói tướng tiếp nối, cho nên không có thứ nào không đang nói pháp.

Tiên Nhân Chưởng nở hoa nói pháp cho chúng ta: “vạn pháp vô thường, như sương cũng như chớp”, chẳng phải đang nói kinh Kim Cang? Kinh Kim Cang, Kim Cang Bát Nhã, tâm luôn nghĩ vẩn vơ chính là chỗ khác nhau giữa học Phật và không học Phật. Chúng ta có thể thâm nhập như vậy mới biết được sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, cảnh giới nào cũng là “Đại Phương Quảng”, cảnh giới nào cũng là “Phật Hoa Nghiêm”, “Vô Lượng Thọ”, “Thanh tịnh Bình đẳng Giác”, chỉ do chúng ta không nhận ra. Nếu nhận ra mới hiểu được những gì kinh Hoa Nghiêm nói. Chư Phật Như Lai giảng kinh nói pháp, trần thuyết, sát thuyết từ trước đến giờ chưa từng gián đoạn. Tận hư không khắp pháp giới bất cứ lúc nào nơi nào cũng đều đang nói pháp. Tất cả pháp chính ngay trong sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, tiếc là chúng ta không nhìn thấy. Giống như tia chớp sáng lên một tí, chớp lên một cái rồi lại tối đen, lại mê muội. Chúng ta làm sao gìn giữ một niệm sáng suốt, đó gọi là công phu; gìn giữ một niệm trí tuệ, một niệm cảnh giác, đó chính là trí tuệ cao độ.

Cho nên tín nguyện hạnh, nguyện là quyết định phải sanh Tây Phương Tịnh Độ. Không sanh Tây Phương Tịnh Độ, cho dù ra khỏi mười pháp giới chứng được Pháp Thân Đại Sĩ còn phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp mới có thể viên thành Phật đạo, huống hồ chúng ta không dễ dàng thoát khỏi mười pháp giới, thậm chí chỉ thoát khỏi sáu cõi cũng đã không dễ dàng. Một điều hơi khó nghe nhưng nhất định phải nên biết, thoát khỏi ba đường ác rất khó khăn. Ngày nay rất đông chúng sanh tạo tội nghiệp ba đường ác. Kinh Đại Tiểu thừa, Phật đều nói như vậy, mỗi ngày Phật nhắc nhở chúng tanăm giới mười thiện”. Thân còn tạo sát sanh, trộm cắp, tà dâm; khẩu còn uống rượu, “vọng ngữ” là nói hai lời, khiêu khích, ức hiếp chúng sanh, không thành thật; “ỷ ngữ” là lời nói bóng bẩy lừa gạt, “ác khẩu” là nói thô lỗ, mắng người; ý có tham sân si, tạo mười ác nghiệp này, quả báo sẽ ở ba đường khổ. Hiện tại tuy chưa đọa vào ba đường nhưng đã đánh dấu tương lai sẽ thọ báo. Ai không tạo mười ác nghiệp, trái lại còn tu mười thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không hai lời, không ác khẩu, không thêu dệt, không tham, không sân, không si, thì thượng phẩm mười thiện sanh lên trời, trung phẩm mười thiện phước báu ở đời sau. Đời sau vẫn được thân người, hưởng phước nhân gian. Hiện tại thế gian có nhiều người hưởng phước do quá khứ có công tu năm giới mười thiện, nên hiện tại phú quý này là phước báu của họ.

Nhân duyên quả báo chân thật bất hư, không lọt mảy trần, tất cả kinh Phật đều nói như vậy. Nếu chúng ta không chăm chỉ làm đúng thì đó là tự cam đọa lạc, tín nguyện hạnh thảy đều không có. Hành là thành thật niệm Phật. Khi không có việc gì, trong lòng trì một câu Phật hiệu không gián đoạn, điểm này rất quan trọng. Người niệm Phật không sợ chết, sợ chết thì tín nguyện hạnh là giả. Mục đích chính của người niệm Phật là đến thế giới Cực Lạc, thân cận Phật Di Đà, càng đi sớm càng tốt cho nên không sợ chết. Thế gian không đáng lưu luyến, đời ác năm trược, ở lại thế gian một ngày là chịu thêm một ngày tội, thay vì thế đi sớm một ngày đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để hưởng phước. Kinh nói “Thanh hư chi thân, vô cực chi thể”, không như thân ô uế này, một ngày không tắm gội, lỗ chân lông đều tiết ra mùi hôi thối. Biết thân này bất tịnh, không sạch sẽ, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân tướng y như Phật, đều thân tử ma sắc vàng, tại sao không chịu đổi cái thân, còn lưu luyến cái túi da thối này?

Cho nên người chân thật niệm Phật thường hay nghĩ cái chết, không muốn sống nhiều hơn ở thế gian này nữa. Niệm Phật đường của lão pháp sư Ấn Quang đáng để chúng sanh học tập. Đại sư Ấn Quang tu hành, trong gian phòng của ngài không có bất cứ thứ gì, chỉ có miếng che thay đồ phơi quần áo. Trong Phật đường nhỏ của ngài chỉ có một tôn Phật tượng, một quyển kinh Di Đà. Phía sau tượng Phật viết một chữ “chết” thật to. Đại sư dạy chúng ta làm thế nào tu tín nguyện hạnh, làm thế nào ngay trong đời này nhất định vãng sanh. Học phương pháp của ngài, chúng ta không sợ chết mà mỗi ngày nghĩ chết. Người thế gian cho rằng cái chết rất đáng sợ, còn chúng ta chết thì vãng sanh. Cái chết của chúng ta thực chất chỉ là sự di dân, thoát khỏi thế giới Ta Bà di dân đến thế giới Cực Lạc, hân hoan vui thích. Chúng ta xả bỏ thân ô uế để được thân kim cang bất hoại, xả bỏ hoàn cảnh đời sống xấu ác để đến Tây Phương trải qua hoàn cảnh thanh tịnh. Vậy mới là phát nguyện, vậy mới gọi là thật tu hành. Mỗi tối lên gường liền nghĩ Phật đến tiếp dẫn, mắt nhìn vào vách xem thử Phật có đến hay không. Ngày ngày nghĩ Phật đến, giờ giờ nghĩ Phật đến, buổi trưa ngủ cũng nghĩ Phật đến, luôn luôn hy vọng, trông mong vào ngài. Nếu hiện tại Phật chưa đến, chúng ta còn chút việc phải tranh thủ đem kinh này giảng giải, giúp đỡ chúng sanh để khi chúng ta đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc có thể dẫn thêm được vài người đi cùng. Đó là việc làm vô cùng ý nghĩa.

Sau tín là huệ, sau nguyện cũng có huệ. Tín mà không có trí tuệ thì không phải chánh tín. Trong tín đó có tà tín, tư tưởng kiến giảisai biệt. Nguyện cũng phải có huệ, nguyện mà không có huệ thì không phải thật nguyện. “Tin sâu nguyện chắc” là cách chúng ta gọi huệ này. Huệ thực tiễn ngay trong bộ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đọc tụng, lý giải, y giáo phụng hành, huệ liền đầy đủ.

Hương Tượngđại biểu cho hạnh. Trong chú giải của người xưa, khí lực của “Hương Tượng” rất lớn. Thời xưa khoa học chưa phát triển, vận chuyển đều nhờ vào sức động vật. Sức mạnh lớn nhất bấy giờ là đại tượng, mạnh hơn rất nhiều so với trâu ngựa. Cho nên tượng đại biểu cho sức mạnh, luôn được dùng để ví dụ. Nguyện hạnh của chúng ta vô biên, nguyện hạnhđại lực, biểu thị ý này. “Tín nguyện hạnh” là ba điều kiện tu hành cần thiết của Tịnh Độ, không thể thiếu một trong ba. Phải đầy đủ viên mãn thì hành giả nhất định sẽ vãng sanh.

11. Bảo Anh Bồ tát

Anh là tinh hoa, Bảo Anh chính là tinh hoa trong Bảo, đại biểu Di Đà nguyện hải. Tất cả chư Phật Bồ tát phát đại nguyện đều lấy nguyện của Phật A Di Đà làm tinh hoa. Bồ tát Bảo Anh biểu thị ý nghĩa này cũng chính là nói, người đầy đủ tin sâu nguyện chắc, thành thật niệm Phật, nhất định vào biển nguyện Di Đà, thành tựu đại viên mãn. Bồ tát ngay đây chẳng phải đã thọ ký cho tất cả chúng ta sao? Thọ ký vãng sanh làm Phật, loại thọ ký này, không luận là Hiển giáo, Mật giáo, mà bao gồm tất cả thọ ký.

12. Trung Trụ Bồ tát

Chúng ta mong cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham dự đại pháp hội của Phật A Di Đà, đó là Di Đà nguyện hải. Chúng ta cũng hiểu rõ những đạo lý này, nắm vững cương lĩnh, tu hành thế nào. Thế nhưng hiện tại chúng ta vẫn chưa đi, thân thể vẫn còn ở thế gian này, vậy phải sinh họat ra sao? phải làm việc thế nào? Làm thế nào đối nhân xử thế tiếp vật tương ưng với lý luận cảnh giới trong kinh mà không hề trái phạm?. Điều này vô cùng quan trọng. Hay nói cách khác, hiện tại chúng ta chưa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta phải trải qua đời sống như các thượng thiện nhân của thế giới Tây Phương Cực Lạc, như vậy mới tương ưng. Cho nên ở nơi đây, Phật dùng Bồ tát Trung Trụ để biểu thị.

Tâm chúng ta phải ở nơi trung đạo, không có tâm thiên lệch. Tất cả đều phải nắm được trung, cái trung này không thiên vào không cũng không thiên vào có, không thiên vào chánh cũng không thiên vào tà. Những chân giả, tà chánh, thiện ác, phải quấy, chúng ta đều nói hai bên. Phật dạy phải đi vào trung đạo, đó chính là biểu hiện đời sống trí tuệ cao đẳng. Phải tiếp cận chánh pháp, cũng không thể bài trừ tà pháp. Chuyển tà quay về đường chánh, đó là tạo công đức, trí tuệ. Nếu có phát tâm, tâm thừa mà sức không đủ để chuyển tà quay về đường chánh, như vậy công đức cũng đã hoàn thành, như trên kinh Lăng Nghiêm Phật nói “phát ý viên thành”, thì xem như cũng được viên mãn công đức. Cho nên phải biết dùng “Trung đạokết hợp đời sống tu hànhTịnh Niệm liên tục” mà Bồ tát Đại Thế Chí đã nói. Đây là ý nghĩa mà “Trung Trụbiểu thị.

Tịnh niệm là niệm Phật, không nhất định phải niệm ra tiếng. Miệng niệm không ra tiếng thông thường gọi là Kim Cang trì. Còn có một loại hoàn toàn niệm thầm, miệng cũng không động, trong lòng đích thực rõ ràngA Di Đà Phật, A Di Đà Phật” không gián đoạn, quyết không dễ dàng xen tạp. Một câu Phật hiệu tiếp một câu Phật hiệu, không những tất cả pháp thế gian không xen tạp, mà thân tâm thế giới tất cả buông bỏ, niệm Phật như vậy liền cảm ứng. Pháp sư học giảng kinh, khi đang niệm Phật thì không nên nghĩ đến việc học giảng kinh, kinh văn cũng không nên nghĩ tưởng, cách giảng thế nào cũng không nên nghĩ, không nghĩ tưởng bất cứ thứ gì, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Phật hiệu niệm xong sẽ có cảm ứng, hành giả liền được Phật lực gia trì, khai mở trí tuệ.

Vạn lần không nên một mặt niệm Phật một mặt nghĩ đến kinh này cách giảng phải thế nào, phải nghiên cứu ra sao. Vậy thì hỏng, Phật niệm không tốt, kinh cũng không nghiên cứu xong, đó gọi là không khéo dụng tâm. Người khéo dụng tâm chỉ dùng một tâm. Khi niệm Phật một lòng niệm Phật, khi nghiên cứu một lòng nghiên cứu. Mở quyển kinh ra nghiên cứu thì tuyệt đối không niệm Phật, tâm phải chuyên nhất một công việc, Phật nói “để tâm vào một chỗ thì việc gì chẳng xong”. Y theo cách dạy này của Phật nhất địnhthành tựu.

Bản thân tôi có thể để tâm vào một chỗ, không luận làm việc gì nhất định một lòng mà làm, đang làm việc này quyết không nghĩ đến việc kia. Cho nên tôi làm việc rất nhanh, rất tự tại. Nhờ lão sư Lý, Chương Gia đại sư làm gương cho tôi xem, tôi nhìn dáng vẻ của họ, học tập với họ. Gần đại sư Chương Gia ba năm, thân cận lão sư Lý mười năm, mỗi ngày tôi nhìn họ. Lão sư thường chăm sóc tôi, chỗ nào sai lầm, họ giúp tôi sửa đổi. Chính mình tâm chánh, ngôn chánh, hạnh chánh, người bên ngoài có nói thế nào cũng không ảnh hưởng. Thế gian làm gì có ai có thể vừa lòng tất cả mọi người. Phật còn không làm được. Thế gian này có biết bao người mắng Phật Thích Ca, mắng Phật A Di Đà. Phật còn bị người mắng thì ta bị người khác mắng có can hệ gì. Phật tiếp nhận người ta mắng, chúng ta cũng phải tiếp nhận người ta mắng, không nên một câu biện bạch. Đối với người, chúng ta chân thành cung kính tán thán. Người ta hủy báng, nhục mạ, hãm hại, chúng ta vẫn cần tán thán, cảm ân họ. Như vậy mới tiêu nghiệp chướng, tăng phước huệ của chính mình. Thường giữ tâm “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, đó mới là Bồ tát Trung Trụ.

Cho nên phải học “Tịnh Niệm Liên Tục”, trong niệm có tịnh, tịnh là không xen tạp. “Tương tục” là công phu không gián đọan. Từ nơi công phu mà nói có thể đạt đến “Tức Niệm Ly Niệm”, công phu liền có kết quả, liền được thuần thục. “Tức Niệm Ly Niệm” chính là “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”. Không niệm cùng niệm là một, không phải là hai. Vào pháp môn không hai, phiền não không hai là cảnh giới của pháp thân đại sĩ. Có thể vào được pháp môn không hai thì không cần nói sáu cõi mà có thể siêu việt luôn mười pháp giới, biết tất cả pháp thế xuất thế gian đều là pháp bất nhị, biết được kinh Phật đều là lời thật.

Phàm phu luôn cho rằng chính mình cùng người khác là đối lập. Không phải vậy, tận hư không khắp pháp giới là chính mình, đó là chân tướng chúng ta có thể thấy được, có thể khẳng định. Kinh Phật nói, chứng được pháp thân thanh tịnh, hành giả liền thành Phật, mức độ thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ tát, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, họ thành Phật thật, không phải Phật giả. Trong phán giáo, đại sư Thiên Thai nói “Phần Chứng Tức Phật”, tuy chưa viên mãn nhưng họ chứng thật. Vậy chứng được cái gì? Họ thừa nhận tận hư không khắp pháp giới đều là chính mình, tâm đại từ bi sanh khởi đối với tất cả chúng sanhđiều kiện. “Vô duyên đại từ”, cái duyên đó gọi là điều kiện. Từ là quan tâm, thương yêu, tôn trọng, toàn tâm toàn lực chăm sóc tất cả chúng sanh. “Đồng Thể Đại Bi”, bi là nhìn thấy tất cả chúng sanh khổ nạn, giúp họ thoát ly khổ nạn cũng không có điều kiện, vì đồng thểbao gồm tất cả chúng sanh đồng một thể với chính mình, một tâm một pháp giới, cho nên pháp giới gọi là nhất chân. Bồ Tát Trung Trụ ở đây biểu thị ý nghĩa rất sâu, đó là lý còn gọi là nhìn thấu.

13. Chế Hành Bồ tát

Hành là hành vi sinh hoạt của chúng ta. Hành vi sinh họat không sao tránh khỏi sai lầm. Chính mình phải biết tiết chế, sửa lỗi tự làm mới, đó là chân thật tu hành. Thánh hiền Trung Quốc xưa dạy, “không phải thánh hiền thì sao không lỗi”. Mỗi người đều có lỗi lầm, “lỗi mà có thể sửa còn việc gì tốt hơn”. Biết sửa lỗi, người đó chính là Bồ tát, không chịu sửa lỗi thì là phàm phu. Sửa lỗigiác ngộ, là công phu. Trung Trụ biểu thị học vấn, Chế Hành biểu thị công phu. Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc này, không luận từ công việc nghề nghiệp nào, tuân thủ, nắm chắc nguyên tắc này chính là ta đang trải qua đời sống của Bồ tát.

14. Giải Thoát Bồ tát

Giải là giải trừ phiền não, lo lắng, vướng bận, thoát khỏi tất cả ưu bi khổ não ngay hiện tại. Giáo học của Phật pháp có thể thể hội được, có thể quan sát được, nó đích thực giúp đỡ chúng ta hiện tiền đạt hạnh phúc, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội an lành, mọi người tôn kính lẫn nhau, lễ nhường, hợp tác lẫn nhau, cùng tồn tại phát triển, quốc gia giàu mạnh, thế giới hòa bình. Đó cũng là mong mỏi của các lãnh đạo chính trị gia, khoa học gia, công thương nghiệp, thậm chí đến các lãnh đạo giới học thuật, giới tôn giáo. Vào năm 70, nhà triết học lịch sử nước Anh đã chỉ điểm trên thế giới chỉ còn một đường đi, ông nói: “Muốn cứu vãn thế kỷ 21 đạt đến hòa bình cùng tồn tại, chỉ có học thuyết của nhà Nho cùng Phật pháp Đại Thừa”. Câu nói phát ra từ miệng của một người nước ngoài, một con người cừ khôi học vấn. Ông đã nhìn thấy thế kỷ 21 là một xã hội rất phức tạp.

Ngày trước mỗi quốc gia khu vực đều đóng cửa, không hề qua lại với nhau. Mỗi người có phạm vi nhỏ của mỗi người. Đến thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật thông tin phát triển, mỗi người đều có vi tính. Học sinh tiểu học nước Mỹ đều dùng vi tính trên lớp, tin tức toàn thế giới đều ở ngay trước mắt, lúc nào cũng có thể du lịch khắp nơi, chánh thức tiếp xúc mặt đối mặt. Ngày trước văn hóa không đồng, vừa tiếp xúc liền nảy sinh xung đột, bất đồng quan điểm do phương thức đời sốngtín ngưỡng tôn giáo khác nhau, khó có thể thích ứng. Tuy nhiên học thuyết nhà Nho cùng Phật pháp Đại Thừa có thể giải quyết ổn thỏa. Những năm trước, Anh quốc đã đem Phật học vào giáo trình trường học. Các bậc tiểu học, trung học, đại học đều có kinh Phật trong giáo trình. Nước Anh là quốc gia Ki To giáo, họ dẫn đầu sự kiện này.

Hiện tại Úc châu cũng đã mở hội thảo tập hợp các nhân vật lãnh đạo giới tôn giáo, giới học thuật, học giả chuyên gia đến thảo luận nghiên cứu môn học thích ứng thế kỷ 21. Tôi đã tham dự buổi hội thảo, thăm viếng một số trường đại học của họ. Bậc đại học ở đó rất chú trọng đến vấn đề này, bởi vì chính sách hiện tại của Úc châu là mở rộng di dân từ các nơi khác nhau trên thế giới đến. Từ bối cảnh văn hóa, tư tưởng, tín ngưỡng không giống nhau, họ phải cùng người Úc châu chung sống trong một xã hội, tuy nhiên phải làm thế nào gạt bỏ được những ngăn cách, gạt bỏ hiểu lầm, đạt đến hợp tác lẫn nhau cùng tồn tại phát triển. Một viện trưởng của học viện đến hỏi tôi câu hỏi này, tôi nói: “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh”, họ nghe hoan hỉ và muốn tôi đến mở lớp. Nhưng ở Singapore, tôi bị Lý Mộc Nguyên giữ lại, ông ấy xây dựng đạo tràng to lớn tốn kém khá nhiều, tôi phải giữ đạo nghĩa, không phụ lòng ông ấy. Dù hoàn cảnh bên ngoài có tốt hơn, tôi vẫn phải đi cùng ông ấy mà xả bỏ lời đề nghị của đại học Úc châu, không thể lưỡng toàn kỳ mỹ. Chúng ta đã có mười năm gắn bó, một phần ân đức nghĩa tình trong đó nên quyết không thể thấy trăng quên đèn, để lại gương không tốt cho mọi người, tạo động loạn bất an của xã hội. Giữ gìn đạo nghĩa, dù lợi íchtốt hơn, chúng ta cũng không động tâm, đó là kiến lập một gương tốt chính diện cho xã hội. Mọi người nhìn vào đều giảm ham thích danh vọng lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, trải qua đời sống hạnh phúc. Điều này quan trọng hơn bất cứ thứ gì, cũng là lời dạy trong kinh Phật, làm sao có thể trái phạm.

Giải thoát chính là quả báo của hiện tại, còn quả báo vị laivĩnh viễn thoát khỏi sáu cõi luân hồi, không những thoát khỏi sáu cõi luân hồi mà còn siêu việt mười pháp giới, chứng pháp giới nhất chân tức thế giới Tây Phương Cực Lạc, nhất chân trong nhất chân, thù thắng không gì bằng. Cho nên mười phương chư Phật tán thán. Chúng ta trong một đời gặp được thì phải hạ quyết tâm bắt lấy, nhất định phải y giáo phụng hành. Mỗi ngày đọc bộ kinh này, thấu triệt được lý giải, đem tập khí phiền não từ vô lượng kiếp đến nay vứt bỏ hết.

Năm trước tôi giảng bộ kinh này, khi giảng đến ba bậc chín phẩm, tôi có cách nói hơi khác cách nói của người xưa có thể giúp mọi người dễ hiểu. Nếu chúng ta y giáo từng câu từng chữ trong kinh, nhất định sẽ được thượng thượng phẩm vãng sanh, vì “tâm nguyện giải hạnh” của chúng ta hoàn toàn tương ưng với Phật A Di Đà. Nếu y theo 90%, hành giả sẽ vãng sanh thượng phẩm trung sanh. Làm đến 80% thì bị giáng xuống một bậc, thượng phẩm hạ sanh. Làm được 70%, thì trung phẩm thượng sanh, cứ như vậy mà hướng xuống đến hạ phẩm hạ sanh. Nếu không làm được 20% thì đó chỉ là kết duyên với Phật A Di Đà, đời này không thể đi được. Việc niệm Phật này người xưa nói, “Đau mồm rát họng chỉ uổng công”, đời này không thể vãng sanh. Tôi đã dùng biện pháp phân tích chín phẩm vãng sanh để lý giải vì sao chúng ta phải nỗ lực làm đến 100%, điều đó hoàn toàn không khó.

Khó khăn là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước không chịu buông bỏ. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là giả, toàn là không, chân thật buông bỏ thì mới thượng thượng phẩm vãng sanh. Do đó đời này chúng ta phải tranh thủ. Những thứ khác đều giả huyễn. Đạt đến ngôi vị quốc vương, thiên vương cũng đều là giả, không phải thật. Vinh hoa phú quý cuối cùng cũng không thể giữ được, vẫn phải chết, chết rồi vẫn phải chịu luân hồi, đó là không có trí tuệ.

“Nhi vi thượng thủ”

Mười sáu vị Bồ tátưu điểmsở trường riêng. Chúng ta thảy đều học được, sau đó trở thành Bồ tát viên mãnđức hạnh của từng vị. Mười sáu vị Bồ tát đều là lão sư của chúng ta nên phải cố gắng nỗ lực học tập với họ. Mười sáu vị Bồ tát này biểu thị kinh văn của toàn kinh. Danh hiệu các ngài là tổng cương lĩnh của toàn kinh. Do đây có thể biết, lão cư sĩ Hạ Liên Cư từ ngay đoạn này phân thành một phẩm, rất có đạo lý. Biểu pháp của tỳ kheo Bồ tát phía trước là biểu pháp thông thường của Đại Thừa, biểu pháp chung đại biểu toàn thể Phật pháp, biểu pháp nghiêng nặng về pháp môn Tịnh Độ. Còn biểu thị của mười sáu vị Bồ tát tại gia này là nội dung thiết yếu của bổn kinh, chính là mười sáu cương lĩnh.

Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức

Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Bồ tát Phổ Hiền xếp thứ nhất, Bồ tát Văn Thù xếp thứ hai, cho nên ngài đại biểu là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Do đây có thể biết kinh này cũng là rút gọn, là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm.

Một cách tỉ mỉ thì kinh Hoa Nghiêm nói rộng nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ. Hành giả có thể khế nhập sâu rộng, sau đó giảng kinh Di Đà. Nội dung sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu mới có sức mạnhcông lực. Cho nên “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”, có giảng mấy năm cũng không hết. Câu này lấy từ kinh Hoa Nghiêm, mất năm năm cũng không giảng xong.

Bồ tát Phổ Hiền trong Hạnh Phổ Hiềncương lĩnh quan trọng nhất, đó là “mười đại nguyện vương”, mười đại cương tu hành của Hoa Nghiêm. Bồ tát Phổ Hiền đã tu vô lượng vô biên đức hạnh, quy nạp lại không thể vượt qua mười tổng cương lĩnh này. Mọi người tụng rất quen thuộc mười tổng cương lĩnh này, tuy đọc nhưng phần lớn lại không hiểu ý nghĩa.

Thứ nhất, “Lễ kính chư Phật”

Giáo học nhà Phật, lễ kính đứng hàng đầu, giáo học nhà Nho cũng dạy lễ kính trước tiên. Lễ kính là tánh đức, là lưu xuất tự nhiên từ tánh đức của con người, không phải từ bên ngoài. Mỗi một hành môn của hạnh Phổ Hiền đều tương ưng với tự tánh, đều lưu xuất tự nhiên từ trong tự tánh. Cho nên ngài có thể viên thành Phật đạo. Kinh Phật thường nói “Bồ tát không tu hạnh Phổ Hiền thì không thể viên thành Phật đạo”, đạo lý ngay chỗ này. “Lễ Ký” của nhà Nho, câu thứ nhất Điển lễ viết: “Vô bất kính”. “Vô bất kínhđồng ý nghĩa với “Lễ kính chư Phật”. Những thánh hiền Nho giáo và chư phật Bồ tát của Phật giáo dù chưa hề gặp mặt nhau, chưa từng hội đàm với nhau nhưng lý luận quan niệm phương pháp giáo học gần như giống nhau. Đúng như chúng ta thường nói “Anh hùng sở kiến, đại lượt tương đồng”.

Lễ kính của nhà Nho bao gồm ba nghiệp thân khẩu ý. Thân kính, miệng tán thán, ý giữ sự chân thành. Phật pháp giảng càng thấu triệt hơn. “Lễ”, biểu hiện bên ngoài là cung cung kính kính. “Kính”, giữ ở trong lòng, tâm chân thành, ý kính. “Chư Phật” là đối tượng chúng ta lễ kính. Chư Phật là ai? Trên kinh Phật nói “Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật đều là chư Phật”. Trên kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói về quá khứ Phật, cũng không ít lần giới thiệu về hiện tại Phật, mọi người đều rất quen thuộc. Thế giới Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, thế giới Lưu Ly phương Đông Dược Sư Như LaiPhật hiện tại. Vị lai Phật là tất cả chúng sanh. Do đó phạm vi lễ kính khá rộng. Chúng ta cung kính Phật A Di Đà như thế nào thì đối với tất cả chúng sanh cũng đồng một tâm cung kính như vậy. Nếu lòng cung kính có sự khác biệt, đó không phải tu hạnh Phổ Hiền. Cung kính tất cả chúng sanh bằng tâm cung kính hoàn toàn bình đẳng với Phật A Di Đà, như vậy mới gọi là tu hạnh Phổ Hiền. Chúng sanh có ân hay có oán, giúp đỡ hay nhục mạ đều là Phật, không thể có khác biệt.

Nhiều người cho rằng việc này rất khó làm. Dù rất khó nhưng cũng phải làm cho bằng được, làm không được thì không phải tu hạnh Phổ Hiền. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đã có Phật tánh thì họ chính là Phật. Chúng ta lễ kính họ không phải ở con người họ mà ở việc họ đang làm. Chúng ta tôn trọng Phật tánh của họ, xem Phật tánh của họ cùng tất cả chư Phật Như Lai như nhau. Phật nói, ngoài chúng sanh hữu tình, chúng sanh vô tình là vạn vật trong thế gian cũng có pháp tánh. Pháp tánh cùng Phật tánh là một tánh. Phật vì khác biệt hữu tình và vô tình nên mới gọi Phật tánhpháp tánh, kỳ thật là một tánh. Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”, nói cách khác, chúng sanh vô tình cũng là Phật, cũng phải được cung kính giống như Phật A Di Đà không hề khác biệt.

Ví như cái bàn để ngay trước mặt, trên bàn có những thứ dơ bẩn, chúng ta lập tức lau sạch sẽ dù cái bàn này có phải của ta hay không, ta có dùng nó hay không. Bàn để không ngay thẳng, chúng ta lập tức sửa lại, ghế cũng phải lau thật sạch sẽ, xếp ngay thẳng chỉnh tề. Ngồi trên ghế không ngay thẳng là không tôn kính, tu “Lễ kính chư Phậtthể hiện ý này. Hội Hoa Nghiêm có bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ đều tu, không có ngoại lệ. Chư thượng thiện nhân phàm hễ vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, từ thượng thượng phẩm đến hạ hạ phẩm mỗi người đều tu. Hiện tại chúng ta chưa đi thì bây giờ tu, tập thành thói quen, khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ rất thuận tiện. Nếu hiện tại chưa tập thành thói quen, tập khí còn nặng, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ bị người ta khai trừ, thật là hổ thẹn. Thực ra, thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ không khai trừ ai, chẳng qua chúng ta không thể đến đó được. Kinh nói A Di Đà Phật cùng những bậc thượng thiện nhân là “thiên nhãn đồng thị, thiên nhĩ triệt thính”. Chúng ta không thấy được các ngài nhưng các ngài thấy được chúng ta. Công phu tu hành của chúng ta nơi đây, chính mình không hề biết nhưng các ngài thấy rõ ràng tường tận. Sau đó các ngài lựa chọn người có thể đến và người không thể đến. Người trúng tuyển là người phù hợp với điều kiện của các ngài. Hiện tại chúng ta hãy nỗ lực tu hành, các ngài xem thấy liền hoan hỉ. Nhất định khi lâm chung được chư Phật Bồ tát tiếp dẫn, mở đại hội hoan nghênh, vô cùng hạnh phúc.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31682)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12768)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16678)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10826)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22977)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12034)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11503)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12345)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11928)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12380)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9821)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11281)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10337)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11064)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10149)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9903)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10525)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9701)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19152)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8746)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14607)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10000)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10181)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9007)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15352)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11896)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10764)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13350)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10006)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9397)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15909)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant