Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 32

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10312)
Phần 32


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32)

 

Pháp Sư Tịnh Không

“ĐIỀU CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN, DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU LIỆU TAM KHỔ”

Đoạn kinh văn đại ýbi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là nói đến trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc rất sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biếthai mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm ba loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”.

Khổ khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội, ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám khổ giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó tồn tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ. Sau cùng là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ mãi”, đây thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về hành khổ.

Phật nói, trong dục giớiba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có trí tuệ, sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó họ không có khổ khổ. Người trời sắc giớihoá sanh, cho nên họ cũng không có khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dụctài, sắc, danh, thực, thuỳ”. Trong khi đó, cõi dục giớithai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số.

Một điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con người vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có người nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời sắc giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi thân, nhưng nuôi thân không cần phảithức ăn, đó là thiền định. Thiền định cũng là trạng thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm chứng minh cho chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên tận khả năng hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình. Không chỉ giúp đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn khoẻ mạnh sống lâu, không dễ già yếu.

Định huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể này phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giớithân thể, tuy không khổ khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các cung điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu? Từ thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm một bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới. Vô sắc giới đương nhiên khônghoại khổkhổ khổ, nhưng họ có hành khổ. Hành khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng cao nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ.

Phật nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa. Bên trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm thời đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn. Phật thí dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền cảm thấy an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được ăn sẽ càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui? Đã đến lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật.

Cho nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiệnthế gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành đạo, tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối tượng giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh, tuyên diệu lý”.

“Điều chúng sanh, tuyên diệu lý”

Chúng sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vậtcảm tình. Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều tâm, điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp tắc tự nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi là pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ nạn và những việc không vừa ý.

Pháp tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế nhưng thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ dụng của Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại, liền có thọ dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng tatướng có thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể. “” không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “” gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân không bất không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”. Chân không ý nói tâm tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những tướng này gọi là diệu hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng ta, bao gồm tất cả vạn tượng; cái vạn tượng này không thật.

Kinh Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói không có tướng. Tướng là hư vọngtướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp giới nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện tượng này vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không phân biệt đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh. Còn nếu bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng tưởng phiền não do tự làm tự chịu.

Kinh Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời giankhoảng sát na”. Kinh Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay của người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất nhanh, một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na, lại nhân tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã có thể lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm mười sáu ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả?

Kinh Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật, mới thể hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát na không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ việc này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu nói chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướngbất sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như đồng thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp.

Chúng tanguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn bản không thể tồn tại, chân thậtmộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng sanh mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biếncảnh giới thiện; ý niệm ác, chuyển biếncảnh giới ác.

Do đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là điều tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng ta phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên. Còn sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người sinh hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào?

Cho nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm. Thế giới Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh nói “các bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi người đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định giống thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như vậy? Vì người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiếnphiền não, trần sa phiền não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp.

Còn thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư tưởng kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong lòng nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh khỏi.

Nếu các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì tôi cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham sân si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này thì tốt. Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng thế giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là người sáng suốt.

Họ không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để giác ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp nhân quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì bạn còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể tiếp nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi là “thần thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể khác. Đó không phải là chết.

Thân thể chúng tasanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh diệt. Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu bạn nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn đã nâng cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như mặc quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó đi, lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao, bạn liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tạixả thân thọ thân, giống như lột bỏ quần áo thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần áo nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu mới. Họ an vui xả thân thọ thân.

Học Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn trương, khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định tốt đẹp hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy hoang mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh, thân ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát, khó coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong Phật pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”, nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn gọi là “mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là ta, không nhận cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhưng không rời khỏi sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời, sanh lên trên cõi trời. Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp giới của thanh văn, duyên giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn thánh là không gian sinh hoạt của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi.

Nếu bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiệnthế gian muốn nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”. Cho nên chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.

Đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng, giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật, phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không thanh tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, bạn mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động, không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là công phu.

Chúng ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất. Mỗi ngày sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù niệm thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệmô nhiễm, thiện niệm cũng là ô nhiễm, nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm cho ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu A Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân như bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung Quốc là “Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của thế giới Tây Phương Cực LạcA Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói.

Bạn phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến thành A Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp niệm nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “chánh thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta hưởng thụ không bình thường. Còn hưởng thụ bình thườngvô niệm, “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”, đó là hưởng thụ bình thường.

Cho nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều chúng sanh tuyên diệu lý”. Diệu lýchân tướng sự thật, cũng là “thật tướng các pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc này để chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình khế nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều chúng sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát.

“Trữ công đức, thị phước điền”

Muốn hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt, không hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm sao có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn danh để tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn dục vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi, cũng xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo, thế nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng lợi dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.

Vì sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ. Các vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của trụ trìchấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu phước, nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ không hề thay đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp.

Hiện tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội nghiệp. Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải cúng dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này là thật, không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ mười phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết đều mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải trả nợ.

Cho nên Phật dạy chúng tatrữ công đức”, không phải phước đức. Trong công đứcphước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức do tu công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định chính là đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công là tu nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải trữ công đức, tích công bồi đức.

Làm thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn trữ, lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu rừng công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó là lửa sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này tu hành trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi tức giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy giờ đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch, không còn gì cả.

Người hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của công đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng không vui thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng chỉ sợ bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên nhằm phá hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực phá hoại công đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì phá hoại công đức của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ thúc đẩy bạn, khiến bạn khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả nhiên khởi tức giận, khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình thiêu hết sạch. Ma ở nơi đó liền vỗ tay vui mừng.

Chúng ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của bạn mới có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta xem, “định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định, không có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới thường hay khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên chúng ta trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu hành.

Ngày trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa thế nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não, đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên tác dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công phu của bạn là giả, không phải thật.

Công phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với chúng sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu khắc thì có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy biểu hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng ngay trong cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý, viên dung, thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây gọi là công phu, bạn chân thật là trữ được công đức.

Thị phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính mình mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên thành Phật, Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí tuệ viên mãnphước đức viên mãn.

Phật biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng sanh hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là hưởng phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để được phước báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có phước nhất định phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình. Hưởng riêng là tạo nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước.

Thị” chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ duyên tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại lớn.

Loại thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười pháp giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn áo mặc. Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của họ có thể trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại nghèo về vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí tuệ. Phạm vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ thuật với người khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết phạm vi sâu rộng vô hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ đại bi giúp đỡ chúng ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất nhiều. Bạn phải có trí tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để tu phước. Hiện tại người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ đều có thể quan sát rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng sanh khổ nạn nghèo cùng của thế giới.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31686)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10538)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11237)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12771)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10818)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16680)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10828)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22981)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12348)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10032)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11933)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10704)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12383)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9823)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13850)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9713)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10472)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9914)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10794)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9906)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8776)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9507)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14535)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10568)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9344)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10527)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12036)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9703)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10221)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19155)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8995)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10104)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8980)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8750)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14610)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8787)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9054)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10540)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8650)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10003)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24295)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9482)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8012)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9280)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15357)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21413)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12174)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10238)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19261)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7984)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11359)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9399)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15912)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant