Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 14

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10501)
Phần 14

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 14)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Loại thứ hai là “Chuyển nghiệp sám”. Đó là loại người thông minh, họ có thể chuyển biến. Việc này rất vi diệu, hiệu quả thù thắng. Tức là đem tư tưởng ý niệm của bạn chuyển đổi lại từ phàm thành thánh. Cách chuyển thế nào? Chúng ta cũng đã có mấy lần nói đến. Từ trước đến nay, chúng ta chẳng phải khởi tâm động niệm đều vì chính mình, vì lợi ích, danh vọng, lợi dưỡng của chính mình, chấp trước kiên cố, tuy nhiên hiện tại biết nghe Phật pháp, đã thấu hiểu, quan niệm ý nghĩ dần dần thay đổi, từ nay về sau không còn vì chính mình nữa mà mỗi niệm vì chúng sanh, vì Phật pháp, nghĩ như vậy và làm cũng như vậy. Lời nói việc làm đều vì xã hội, vì chúng sanh, đây chính là chuyển phàm thành thánh. Hiệu quả vô cùng to lớn. Vốn dĩ chúng ta ngày ngày tạo ra ác nghiệp đều vì tự tư tự lợi, vì hại người lợi mình, tương lai ắt đọa đường ác. Hiện tại ý niệm vừa chuyển, quyết định không vào ác đạo nên cái duyên ác đạo tham sân si đã cắt, phải quấy nhân ngã không còn nữa. Trong Tứ Thư nói: “Hy sinh phụng hiến, xả mình vì người”, khi vừa chuyển đổi, không chỉ chuyển ba đường, mà còn chuyển sáu cõi, trực tiếp tiến vào con đường thánh nhân, siêu phàm nhập thánh. Đây là loại sám pháp chuyển đổi.

Loại thứ ba là “Tiêu trừ tội nghiệp”, diệt nghiệp mới là cứu cánh. Tội nghiệp đã tạo từ vô lượng kiếp, kinh Phật có nêu một thí dụ, giống như gian phòng tối, bên trong tối đen, chúng ta chỉ đốt lên một ngọn đèn thì liền chiếu sáng. Bóng tối mất ngay. Chúng ta có thể dùng bóng tối thí dụ cho tội nghiệp, đèn thí dụ cho trí tuệ. Định có thể phục nghiệp, huệ có thể phá nghiệp. Do đây có thể biết tu học của chúng ta nương giới sanh định, do định khai huệ. Cho nên trì giới, các vị phải biết nếu không thể được định thì việc trì giới đó là phước báu hữu lậu của thế gian, không thể chuyển nghiệp, không thể diệt tội, thậm chí phục tội cũng không phục được. Giới phải được định thì giới có công đức, còn giới không được định thì giới này là phước đức, không phải công đức. Trì giới được định có phước đức, có công đức có thể thoát sanh tử, ra khỏi ba cõi. Nếu chỉ có phước đức thì không thể.

Vì sao trì giới như vậy không thể thành tựu được công đức? Vẫn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chính mình trì giới rất nghiêm, rất thanh tịnh hiếm thấy, mọi người đều tán thán, thế nhưng họ vẫn có phiền não. Xem thấy người này phá giới, người kia không giữ giới, họ còn có những phân biệt, liền khiến công đức trì giới của họ bị mất hết. Do đó làm sao có thể được định? Lục tổ Đại sư Huệ Năng nói trong Đàn Kinh rất hay: “Người chân chính tu hành sẽ không thấy lỗi thế gian”, người thế gian phạm rất nhiều lỗi lầm, nếu còn không thấy chẳng phải đã biến thành mất trí? Thấy như không thấy, quyết không để trong lòng. Người tu hành luôn sáng suốt hơn người không tu hành, thấy như không thấy, không để trong lòng, đó gọi là không thấy lỗi thế gian. Đại sư còn nói: “Nếu thấy lỗi của người, xem đó là lỗi ở mình”. Bạn thấy lỗi lầm của người khác, bạn để trong lòng, dính ở trên miệng, thường hay nói lỗi lầm này, đại sư cho đó là lỗi lầm nơi bạn.

Thời xưa có câu: “Bên phải lên cao, bên trái xuống thấp”, chúng ta lên giảng đài cũng phải đi từ bên phải mà lên, xuống thì từ phía bên trái. Lại nói “Người lỗi ta không lỗi, ta lỗi tự có lỗi”, họ làm không phải, ta không thể giống như họ. Chính mình giới luật nghiêm hơn mà còn phê bình, xem thường, nói lỗi lầm của người khác thì chính mình liền có lỗi lầm. Ở đây Lục tổ nhắc nhở chúng ta tu hành thành tựu công đức phải chân thật sám trừ nghiệp chướng. Lịch sử thời đại nhà Đường, tổ sư sáng lập luật tông Trung Quốc, Luật sư Đạo Tuyên ở núi Chung Nam, không ai sánh bằng, không chỉ người thời đó tôn kính, tán thán ngài mà mãi đến ngày hôm nay, nhắc đến Luật Sư Đạo Tuyên, không ai không khởi tâm cung kính. Ngài trì giới rất tinh nghiêm thanh tịnh, cảm được thiên nhân cúng dường. Mỗi ngày ngài ăn một bữa, thiên nhân đưa cơm đến cúng dường. Ngài không cần phải đi khất thực. Phước báu rất lớn.

Một hôm, đại sư Khuy Cơ đi ngang núi Chung Nam, vốn ngưỡng mộ Luật Sư Đạo Tuyên, ông thuận tiện ghé thăm. Luật Sư Đạo Tuyên nghe đại sư Khuy Cơ đến thăm, liền nghĩ đến cần phải hiển lộ một chút để đại sư Khuy Cơ thấy, bởi vì nghe nói đại sư Khuy Cơ rất kém trong việc giữ giới. Ông sanh ra trong một gia đình giàu có, chú của ông là Uý Trì Kính Đức, đại tướng của Đường Thái Tông. Vốn sanh ra từ hào môn quý tộc, đến khi xuất gia gọi là Tam Xa Hòa Thượng. Nguồn gốc của cái tên “Tam Xa” là do trước đó, Đại sư Huyền Trang tìm ông và khuyên ông xuất gia. Ông đưa ra ba điều kiện hưởng thụ với Đại sư. Thứ nhất, ông thích đọc sách, muốn mang theo một xe sách đi xuất gia. Thứ hai, hưởng thụ vật chất, muốn mang theo một xe vàng ròng. Thứ ba, phải có mỹ nữ hầu hạ, muốn mang theo một xe mỹ nữ. Đại sư Huyền Trang đều đáp ứng tất cả. Cho nên người ta gọi ông là Tam Xa hòa thượng, việc trì giới của ông không được nghiêm khắc. Cho nên Luật Sư Đạo Tuyên cho rằng Đại sư Khuy Cơ học vấn tốt, có biện tài, thế nhưng giới luật thì không được. Vậy hôm nay phải biểu diễn một chút để ông ấy xem.

Buổi trưa thiên nhân thường đưa cơm đến cúng dường, việc này rất hiếm lạ. Đại sư Khuy Cơ lên ngồi trên núi, đến giữa trưa ngày hôm đó thiên nhân không đưa cơm cúng dường đến. Luật sư Đạo Tuyên rất thất vọng, vốn dĩ muốn biểu diễn một chút để cảm hoá Khuy Cơ, không ngờ thiên nhân thất tín lại không đến, không còn cách nào, buổi chiều Đại sư Khuy Cơ đành xuống núi. Đến buổi trưa hôm sau, thiên nhân đưa cơm cúng dường đến, Luật Sư Đạo Tuyên liền trách cứ: “Vì sao hôm qua ông không đến?” Vị thiên nhân trả lời: “Hôm qua Bồ tát Đại thừa ở trên núi, cả núi đều có thần hộ pháp bảo hộ, tôi không đến được”. Luật sư Đạo Tuyên nghe rồi liền toát mồ hôi, hổ thẹn đến cùng tột, mới biết được cái ý niệm của chính mình là sai lầm, chính mình có tội nghiệp.

Câu chuyện này là một minh chứng cho lời nói của Đại sư Huệ Năng, chúng ta xem thấy người khác có lỗi lầm, thế nhưng họ thật có lỗi lầm hay không? Không hề thấy. Người khác thấy Đại sư Khuy Cơ khuyết điểm, lỗi lầm cả người. Thế nhưng thiên nhân thấy ông không phải như vậy. Bạn tu giới luật Tiểu thừa nghiêm như vậy, thiên nhân tôn kính bạn, thế nhưng còn cách xa so với Bồ Tát Đại thừa. Thiên nhân ngày ngày đưa đồ cúng dường đến bạn, nhưng tiếp cận Bồ tát thì không thể được vì có thần hộ pháp ngăn trở. Những lý cùng sự này, chúng ta phải tường tận, phải thấu suốt. Tội nhất định có thể tiêu trừ, thế nhưng phải sám hối như thế nào? Đại đức xưa dạy, chúng ta khởi tâm động niệm tạo tác tội nghiệp có hai loại, một loại gọi là “giá tội”, một loại gọi là “tánh tội”. Giá là phòng chỉ, phòng phạm, thân không có tội, nó chỉ phòng ngừa bạn tạo tội nghiệp. Loại giới điều này, nếu bạn phạm thì gọi là giá giới, vẫn còn nhẹ. Tánh tội thì cho dù Phật có chế định giới luật hay không, bạn tạo tác thì nhất định phạm tội. Lấy ngũ giới để nói, sát sanh là tánh tội. Bạn chưa thọ năm giới thì bạn vẫn có tội. Không thể nói chưa thọ giới thì sát sanh không có tội. Tương tự, không thể nói: “Tôi không hiểu pháp luật, không biết rằng giết người sẽ bị tử hình cho nên tôi giết người xem như không có tội”. Dâm dục là tánh tội, trộm cắp, vọng ngữ lừa gạt chúng sanh cũng là tánh tội, cho dù bạn giữ giới hay không giữ giới.

Bản thân chính là tội, trong năm giới, uống rượu là giá tội, uống rượu không có tội nhưng vì sao Phật lại liệt nó vào trọng giới? Vì sợ bạn uống rượu say sẽ phạm các giới trước, tạo tác những ác nghiệp khác, cho nên rượu là phòng phạm. Nếu bạn phạm vào giới rượu là giá giới, đó không phải là tánh giới. Năm xưa khi tôi cầu học ở Đài Trung, Lý lão sư giảng Lễ ký cho chúng tôi nghe. Lễ Ký do tôi thỉnh chứ thật sự lão sư không muốn giảng, vì sao? Vì không ai chịu học, không có người học thì giảng để làm gì. Tôi đã rất thành khẩn cầu thỉnh nhiều lần, ông mới giảng cho tôi nghe mấy thiên. Giảng đến Lễ Ký đương nhiên phải nhắc đến người chú giải Trịnh Khang Thành, Trịnh Huyền. Khi nói đến câu chuyện của Trịnh Huyền, người Trung Quốc thường nói “uống rượu ba trăm ly”. Ba trăm ly có một điển tích, chính là câu chuyện của Trịnh Khang Thành.

Trịnh Khang Thành là đại Nho triều Hán, con người thông minh tuyệt đỉnh, thế nhưng tập khí không đoạn được. Khi lên lớp dạy học trò, ông có thói quen thưởng thức âm nhạc. Thời đó không có máy hát nhưng trong nhà ông luôn có một đội nhạc, ca kỹ đều là con gái. Mỗi khi ông lên lớp, những cô gái ở phía sau xướng ca khảy đàn. Một mặt thưởng thức, một mặt dạy cho mọi người. Thầy giáo của ông để ý thấy những gì thầy giáo dạy trong ba năm, Trịnh Khang Thành hoàn toàn lĩnh hội được hết. Vì là phàm phu, không phải thánh nhân, thầy giáo của ông không tránh khỏi tâm đố kỵ. Biết đứa học trò này tương lai nhất định vượt qua mình, thầy giáo bèn tìm biện pháp hãm hại ông. Khi Trịnh Khang Thành bái biệt trở về nhà, thầy giáo dẫn theo mấy chục học trò đến đình Thập Lý Trường để đưa tiễn. Mỗi học trò kính Trịnh Khang Thành ba ly rượu. Thầy giáo muốn chuốc ông say để dễ bề hãm hại. Nào ngờ Trịnh Khang Thành sau khi uống xong ba trăm ly, một lễ tiết nhỏ cũng không thất. Ông có tửu lượng khá lớn. Năm xưa Lý lão sư giảng đến đoạn này, ông nói: “Nếu mỗi người chúng ta đều có tửu lượng này thì Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ không cần đưa ra giới điều cấm uống rượu”. Sau khi Thịnh Khang Thành rời khỏi, thầy giáo của ông còn mướn một sát thủ hãm hại ông trên đường. Ông vốn thông minh đoán trước sự việc nên liền vào đường tắt mà đi.

Đây là câu chuyện có thật trong lịch sử. Thầy giáo cũng đố kỵ học trò, thế mới biết cuộc đời gian nan, không dễ dàng gì. Cho nên giá tội cùng tánh tội, chúng ta nhất định phải thông hiểu. Giá tội chính là pháp sám hối, y theo phương pháp sám hối Phật dạy, bạch chúng, tuyên bố với mọi người rằng ta đã làm những việc sai lầm nào, những gì Phật răn dạy mà ta chưa thể tuân thủ, đã phạm. Nếu như đã phạm tánh tội thì sám hối bao gồm sự sám và lý sám, tương đối phiền phức hơn, cần phải chân thật phát tâm sám hối từ chính nội tâm mình, nguyện về sau không làm nữa, cầu Phật Bồ tát gia hộ, cầu điềm lạ, cầu cảm ứng. Những phương pháp sám hối này trong kinh luận nói rất nhiều.

Vào năm cuối triều nhà Minh, Đại sư Ngẫu Ích đã y theoTriêm sát sám pháp”, cũng là y theo pháp môn Địa Tạng, tu Triêm Sát Pháp. Phương pháp này rất có hiệu quả. Trong Địa Tạng ba kinh có một bộ chính là pháp sám hốiTriêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo kinh”, có dạy phương pháp sám hối. Đại sư Ngẫu Ích cả đời dùng phương pháp này để tu sám hối, việc này đáng được chúng ta học tập. Thế nhưng trong giá tội có rất nhiều khai mở mà chúng ta cần phải hiểu. Cho nên giới luật linh động hoạt bát, không khô cứng.

Khi tôi ở Hoa Kỳ, có một đồng tu học Phật, nhưng chồng cô và người nhà của cô không học Phật. Sau khi học Phật, cô phát tâm ăn chay, người nhà liền khó chịu. Cũng vậy, một lần tôi ở Miami, người chồng của một vị đồng tu liền đến hỏi tôi về thức ăn chay, nếu không dùng gia vị hành tỏi sẽ rất khó ăn, ông hỏi tôi có nghiêm cấm dùng hành tỏi không? Không nghiêm cấm, bạn có thể dùng, dùng một chút hành tỏi còn tốt hơn nhiều so với ăn thịt. Chúng ta khuyên họ không ăn thịt, nhưng vẫn có thể ăn một ít hành tỏi, không đáng gì, đó là khai duyên. Nếu ngay đến những phối liệu này cũng không cho phép họ dùng thì họ sẽ không ăn chay, mỗi ngày vẫn ăn thịt chúng sanh. Ở chỗ này chúng ta nên cân nhắc, miễn sao họ không tạo trọng tội thì cái tội nhẹ kia có thể thông qua đặc biệt đối với giới tại gia. Nhưng với giới xuất gia, nhà Phật nhất định không cho phép, vì sao? Sợ người ta hiềm khích, đàm tiếu rằng vị hòa thượng đó không giữ giới, vẫn còn ăn hành tỏi. Phật ngăn cấm ngũ tân vì ăn nhiều sẽ có lỗi lầm. Cũng giống như rượu, nó thuộc về giá tội. Rượu uống say mới có lỗi lầm. Rất nhiều người khi uống rượu say thì ngủ một giấc thật dài, họ không phạm lỗi lầm nhưng cũng có không ít người, rượu uống say thì khởi tửu phong, từ đó mới có lỗi lầm.

Nhà Phật không có định pháp, không phải là nhất định. Trong gia vị có những thứ này cũng giống như những hương liệu thì không khởi tác dụng gì. Có người xào rau phối một ít rượu, bạn có ăn cũng không thể say, không gọi là phá giới. Ngày trước tôi ở thư viện Từ Quang Đài Trung, trong đó có một vị cư sĩ Lưu, hiện tại nghe nói ông đã xuất gia, người Sơn Đông thích ăn củ hành, mỗi bữa cơm nếu không có vài củ hành thì ông không nuốt được. Trong nhà bếp nấu cơm là một bà cụ cũng là một lão cư sĩ rất thuần thành. Ngày ngày bà mắng ông phá giới, thế nhưng mỗi ngày nấu mì cho lão sư Lý, Lý lão sư là người Sơn Đông thích ăn mì, bà lại nêm một chút rượu. Cư sĩ Lưu ngày ngày mắng ông phá giới vì trong mì có rượu. Chúng tôi ở cạnh thường xem thấy chuyện cười này. Kỳ thực hai bên đều không có lỗi. Ăn vài củ hành không khởi tác dụng gì, mì nêm một ít rượu cũng không khởi tác dụng gì, đều xem là gia vị. Tuy nhiên trong tự viện thường sợ hiềm nghi, còn đạo tràng cư sĩ thì không việc gì. Thực ra, những sai phạm nhỏ nhặt này không cần xem là nghiêm trọng, trong khi cái nghiêm trọng chân thật thì lại quên mất. Cái nghiêm trọng chân thật là gì?

Bạn xem Sa Di Luật Nghi, giới Sa Di mang tiền theo mình là phạm đại giới. Mỗi ngày trên người chúng ta đều mang cổ phiếu, cái đại giới này bạn không để ý trong khi cái nhỏ nhặt kia bạn lại tô vẽ ra, chẳng phải là điên đảo sao? Vì sao Phật bảo người xuất gia không nên mang theo tiền? Đó là phòng ngừa tâm tham, tiền càng nhiều thì tâm tham càng nặng, càng nhiều thì càng khó xả. Cho nên Phật cấm người xuất gia cầm tiền trong tay, trên tay không được cầm vàng bạc tiền của vật báu, nếu phạm đều thuộc về giá giới. Chúng ta nhất định phải hiểu. Đó là ngừa quấy dứt ác, một loại quyền nghi thiết lập. Thế Tôn khổ tâm dạy học nơi nơi đều vì chúng ta làm ra rất nhiều công việc phòng phạm như vậy.

Có hai phương pháp sám hối, nếu ở sự sám, chúng ta tu Đại bi sám, Lương Hoàng Sám, Từ Bi Thủy sám, y theo sám nghi dạy mà chân thật làm mới có tác dụng. Không nên chỉ đọc qua một lần. Nếu có thể y theo Định khai Huệ thì đó là tu tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh sanh trí tuệ, thấu hiểu chân tướng của những tội nghiệp. Kinh Phật nói “Vạn pháp đều không, vạn pháp do duyên sanh, phàm hễ là pháp duyên sanh thì ngay thể đều là không, không thể có được”. Vậy chúng ta tạo tác chủng chủng tội nghiệpduyên sanh, đã là pháp duyên sanh đương nhiên ngay thể đều là không, đó là đạo lý nhất định. Bạn hiểu được đạo lý này, khế nhập không tánh thì cái tội liền diệt. Chỗ khế nhập như vậy chúng ta thường gọi là chứng đắc. Thế nhưng, nếu chưa chứng được cảnh giới này thì bạn vạn lần không nên nghĩ tội nghiệp là không. Bạn có ăn cơm không? Có, một cái có thì tất cả đều có, một không tất cả không. Nếu bạn quả nhiên có thể vào được cảnh giới tất cả không, tội nghiệp của bạn liền tiêu trừ, vào cảnh giới của kinh Kim Cang: “Nhất thiết pháp hữu vi, pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. “Quán” tức là huệ, vào được cảnh giới như kinh phía trước đã nói “Tam tâm bất khả đắc, duyên khởi tánh không”, đây là then chốt, bạn chân thật được giải thoát, không những siêu việt sáu cõi mà còn siêu việt cả mười pháp giới, đó là lý sám.

Từ trên sự mà sám hối là phục phiền não, phục tội nghiệp, làm cho tội nghiệp không khởi hiện hành, còn trên lý sám hối là nhổ sạch tận gốc tội nghiệp, chân thật chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn, đó mới là pháp sám hối cứu cánh. Sám hối phải bắt đầu từ đâu? Kinh Phật dạy chúng ta mười phương pháp, Phật nói “Có mười sự việc là thuận theo sanh tử”, cũng chính là nói, nếu như bạn có mười sự việc này thì bạn nhất định phải sanh tử luân hồi, không thể thoát khỏi tam giới sáu cõi. Nhưng ngoài ra có mười sự việc có thể làm cho bạn siêu việt luân hồi, siêu việt mười pháp giới. Trước tiên chúng ta phải sám trừ mười loại tâm lý tùy thuận chúng sanh sai lầm.

Điều thứ nhất là “Vọng kế nhân ngã, khởi ư thân kiến”, vọng là hư vọng, kế là chấp trước. Bạn chấp trước hư vọng, cho cái thân thể mình là ta, chấp trước thân thể của người khác là người, từ đó sanh khởi ngã chấp nghiêm trọng. Phật đem vấn đề này xếp vào điều thứ nhất, gọi là thân kiến. Chúng ta trong kiến tư phiền não năm loại lớn thì loại thứ nhất là thân kiến, “Thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến”. Năm loại lớn vừa nêu là kiến giải sai lầm, đầu tiên chính là thân kiến. Thân kiến do đâu mà có? Do không hiểu rõ chân tướng sự thật, trong chân tướng sự thật khởi lên hiểu lầm, đem thân của mình thành chính ta, rồi khởi thị phi nhân ngã, điên đảo vọng tưởng, căn bản của luân hồi. Sáu cõi luân hồi do đâu mà có? Chính do những việc này mà ra, cho nên thiện ác trong Phật pháp nói “vì chính mình là ác, vì người khác là thiện”, cứ theo tiêu chuẩn đó mà định. Vì chính mình là tăng thêm ngã kiến, tăng thêm ngã chấp, những thứ này rất phiền phức. Khi không vì ta nữa mà vì chúng sanh thì ngã chấp dần dần tan nhạt, không còn chấp trước thân này là ta, trạng thái hân hoan vui vẻ, an vui tự tại. Vì chúng sanh, vì xã hội, không luận chúng ta ở nghề nghiệp nào đều chân thật hy sinh phụng hiến. Thực tế mà nói, trong hy sinh phụng hiến còn có ngã chấp, ai hy sinh? ta hy sinh; ai phụng hiến? ta phụng hiến, còn chưa quên được cái “ta”. Hy sinh phụng hiến đều không có, pháp vốn như vậy, trong tự nhiên ta có cách làm như vậy, cho nên phải quên mất cái ta mới được.

Loại thứ hai, bên trong có phiền não, bên ngoài có mê hoặc. Phiền nãothị phi nhân ngã, tham sân si mạn vô lượng vô biên. Mê hoặc bên ngoài, có người mê hoặc, có việc mê hoặc, có vật mê hoặc, xã hội ngày nay, mỗi bước đều là hầm hố hoặc hầm lửa, được mấy người có thể thuận buồm xuôi gió vượt qua con đường hiểm này. Nếu bạn không có trí tuệ chân thật thì sẽ dễ dàng bị dụ, cái tạo tác ác nghiệp này rất nặng, nhất định tăng thêm vô minh, tăng thêm phiền não, cũng là tăng thêm nghiệp sanh tử luân hồi, do đó phải nên sám hối.

Thứ ba “nội ngoại duyên thảy đều đầy đủ”, bên trong có phiền não, bên ngoài có ác duyên. Chúng ta làm thiện phải ngay cả trong ý niệm. Chính mình không thể tu thiện, thấy người khác tu thiện lại còn khó chịu, đố kỵ, nghĩ cách phá hoại, cản trở, không ngại tạo ra tội nghiệp cực trọng, do đó chúng ta nhất định phải biết sám hối. Giả như chúng ta gặp phải tình huống này, cũng không nên bị cảnh giới bên ngoài dao động. Tuyệt đối không nên cho rằng, đã làm những việc tốt mà còn gặp phải nhiều khổ nạn, bên cạnh đó lại nghe những lời xúi bẩy của những kẻ tiêu cực cho rằng làm người tốt thường bị gạt, từ đó không dám giữ tâm tốt, không dám làm việc tốt nữa. Như vậy là hỏng. Kẻ xúi bẩy chính là ma, không phải Phật, vậy chẳng phải bạn đi theo ma để học sao? Chúng ta học với Phật, khi cảnh ma hiện tiền, chúng ta mới có thể trải qua khảo nghiệm, quyết không lo sợ, quyết không thoái lui, gặp muôn vàn khó khăn, phải biết được đó là dịp giúp cho chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, là việc tốt, không phải việc xấu.

Kinh Kim Cang, Phật có nói một đoạn “Thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì đọc tụng thử kinh”, “thử kinhám chỉ kinh Kim Cang. Người thọ trì y theo giáo huấn của kinh Kim Cang là người tốt, thế nhưng bị người ta khinh rẻ, nhục mạ, Phật nói “Con người đó đời trước tội nghiệp phải đọa ác đạo, nếu không thọ trì kinh Kim Cang, không học Phật thì tương lai sẽ lại đọa đường ác”. Hiện tại học Phật, chăm chỉ cố gắng còn bị người khinh rẻ, chà đạp, tội nghiệp của người này hiện tại trả hết, tương lai sẽ không đọa ác đạo nữa. Không những không đọa ác đạo mà còn được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chúng ta nghe Phật nói những lời này, trong lòng cảm thấy được an ủi. Lời Phật nói luôn chân thật, cho nên người học Phật chúng ta có gặp phải nghịch duyên thì cũng phải thản nhiên, nỗ lực kiểm điểm. Người khác hủy báng chúng ta, chúng ta phải cố gắng nghĩ xem có đúng hay không? Nếu có thì phải mau sửa đổi, nếu không có thì cố gắng khích lệ, “có thì sửa đổi, không thì khích lệ”. Quyết không nên trách người khác, không nên khởi một niệm tâm sân hận, tâm báo thù để lại bị đọa lạc. Chúng ta vẫn có tâm cung kính cảm ân đối với họ, họ tiêu tai diệt tội thay ta, họ là đại ân nhân của ta, làm sao ta không cảm kích. Việc tu học của ta vẫn là mỗi niệm hồi hướng, cầu phước cho họ, đó là cách Phật dạy bảo chúng ta phải làm.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14462)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14181)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39812)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15346)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13912)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13955)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37418)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40124)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14670)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14337)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12709)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14886)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19247)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13839)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42705)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13865)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37306)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12712)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11803)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22609)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12548)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12609)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13102)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13134)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17303)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33323)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14866)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11079)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12491)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 12001)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11981)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13179)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12410)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6648)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30496)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13160)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13361)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30773)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19450)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12512)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11893)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14790)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13232)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13241)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30787)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12070)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11865)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12764)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31977)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29471)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11810)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11777)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10473)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11588)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9665)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9698)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10025)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35489)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10179)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10131)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10070)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9700)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27877)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15561)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9888)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13713)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9875)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9736)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18401)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12081)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9608)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9726)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8743)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8943)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8451)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11514)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31808)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12374)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13360)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8872)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9479)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11974)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9262)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9118)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9717)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29438)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9106)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9131)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33335)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8462)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30690)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31335)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37213)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32346)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9963)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27172)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8477)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19287)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13054)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant