Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 21

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10987)
Phần 21

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 21)

Pháp Sư Tịnh Không


Nguyện thứ bảy, “Thỉnh Phật trụ thế” Điều này cũng vô cùng quan trọng. Hiện tại Phật không còn ở thế gian cho nên chúng ta chỉ có thể đắp nắn tượng Phật để cúng dường, tượng trưng cho Phật pháp thường trụ thế gian. Những vị pháp sư đại đức thay Phật nói pháp, chúng ta phải mời họ lưu lại nơi này để giảng kinh nói pháp lâu dài thì chúng ta mới nhận được lợi ích chân thật. Các vị thử nghĩ xem, có mấy người nghe một bộ kinh liền khai ngộ? Không hề có, vậy phải làm sao? Ngày ngày phải nghe. Chúng ta ngày nay, phước báu không bằng người xưa. Thời xưatòng lâm tự viện của Trung Quốc, mỗi ngày giảng kinh không hề gián đoạn. Tự viện luôn có giảng đường. Lịch sử ghi chép, đại sư Thanh Lương năm xưa giảng kinh Hoa Nghiêm, có thể nói trước đó và sau đó không ai giảng bằng ngài. Cả đời đại sư giảng qua năm mươi lần. Người thân cận với đại sư Thanh Lương nếu có lòng nhẫn nại nghe qua năm mươi lần thì có lý nào không thành tựu. Một biến giảng qua chí ít là một năm. Nghe năm mươi biến phải mất năm mươi năm. Năm mươi năm, ngày ngày huân tập thì có lý nào mà không khai ngộ. Chúng ta ngày nay nghe kinh khó khăn là do đâu? Một ngày nóng, đến mười ngày lạnh, mỗi ngày giảng kinh, huân tập không quá hai giờ đồng hồ. Hai mươi bốn giờ chỉ hai giờ nghe kinh, vẫn còn hai mươi hai giờ khởi vọng tưởng, bạn nói xem làm gì có thành tựu. Pháp sư tòng lâm thời xưa mỗi ngày giảng kinh tám giờ đồng hồ. Một bộ kinh Hoa Nghiêm giảng tám giờ mỗi ngày, một năm giảng được viên mãn cả bộ. Chúng ta mỗi ngày giảng hai giờ thì phải bốn năm mới được viên mãn. Đại sư Thanh Lương quả thật hơn người, ngài sống trên trăm tuổi, người thời đó gọi là Bồ tát Hoa Nghiêm. Ngoài ra, ngài và đại chúng còn ở niệm Phật đường, niệm Phật tám giờ, làm gì còn thời gian để khởi vọng tưởng. Họ ở trong loại đạo tràng này ba năm hiệu quả hơn chúng ta ngày nay tu hành ba mươi năm, đây gọi là “trường kỳ huân tu”, sức huân tập quá lớn. Vào đầu năm dân quốc, đạo tràng Trung Quốc đại khái chỉ còn một nơi, đó là đạo tràng niệm Phật của Đại Sư Ấn Quang ở Chùa Linh Nham, Sơn Tô Châu. Đạo tràng ngài không giảng kinh, không có pháp hội, không có kinh sám pháp sự, nhưng Phật thất suốt năm, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Mỗi ngày sáu cây hương, mỗi cây hương một tiếng rưỡi. Sáu cây hương là chín giờ đồng hồ. Mỗi ngày niệm Phật chín giờ. Ngày đêm không gián đoạn, buối tối thay phiên. Suốt năm tinh tấn Phật thất. Tinh tấn Phật thất của ngài là bảy lần bảy liên kết lại với nhau, thêm chín thời hương niệm Phật. Cho nên phàm hễ ở trong niệm Phật đường Ấn tổ niệm Phật vài năm, không luận tại gia xuất gia đều vãng sanh có tướng tốt lạ. Sau khi Ấn tổ vãng sanh, những lão pháp sư Diệu Chân, Đức Sâm kế thừa quy củ, duy trì được một khoảng thời gian. Sau năm kháng chiến, đạo tràng suy vi. Hiện tại nếu chúng ta muốn xây dựng một đạo tràng mới đều không đủ cơ duyên. Chỉ có đạo tràng như vậy mới có thể rèn luyện được chúng sanh, mới chân thật thành tựu chúng sanh. Cho nên xây dựng đạo tràng công đức vô lượng vô biên. Phải xây dựng một đạo tràng chân thật tu học, chân thật có người ở đó thành Phật, vãng sanh bất thoái thành Phật, thì công đức của đạo tràng đó sẽ rất lớn, thu hút đông đảo thiện tri thức quan tâm và sẽ làm theo. Làm thế nào để thiện tri thức lưu lại nơi đây? Người chân thật học Phật tu hành không có tình riêng, không nói nhân tình, cho nên không dùng cách tiếp đãi tốt để giữ họ lại. Chúng ta dùng phương pháp y giáo phụng hành. Chúng ta thật muốn học, thật muốn tu, mọi người cùng phát thật tâm, cho dù không tìm được thiện hữu thì Phật Bồ Tát cũng sẽ hoá thân đến đây. Nhà Phật thường nói “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, vậy người đó là người thế nào? Chân thật muốn học, chân thật muốn tu, chân thật muốn ngay đời này thành Phật. Đây chính là đại tâm phàm phuHoa Nghiêm đã nói. Đã đại tâm phàm phu thì làm gì có chuyện chư Phật Như Lai không chiếu cố, vấn đềchúng ta có phát ra chân tâm không, như vậy mới có thể cảm động thiện tri thức thường trụ khu vực này, để chúng tacơ duyên huân tu lâu dài, mới có thể được lợi ích chân thật. Thành lập kênh truyền hình Phật pháp Ngày nay khoa học phát triển, người ta hiểu hộ pháp quá ít. Hộ phápBồ tát, không phải người thường. Hiện tại người thật có đại trí tuệ, đại phước báu, không cần xây đạo tràng, mà nên xây đài truyền hình vệ tinh, giảng kinh hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ để người trên toàn thế giới đều xem được. Họ không cần đến đạo tràng mà chỉ ở nhà mở truyền hình. Nếu họ chân thật muốn học Phật, mỗi ngày có thể nghe kinh tám giờ đồng hồ. Bồi dưỡng một số pháp sư cũng giống như tổ chức một đoàn hoằng pháp. Chỉ cần mười mấy, hai mươi vị là đủ. Những vị pháp sư này ngày ngày trong phòng thu âm, giảng kinh ghi hình. Sau đó băng ghi hình được mang đến đài truyền hình vệ tinh phát sóng. Đó là đại đạo tràng khoa học kỹ thuật cao. Chúng ta phải xây dựng như vậy. Không nên tốn nhiều tiền xây chùa, đem tiền chôn xuống đất thật đáng tiếc, không có tác dụng lớn. Chúng ta phải đem số tiền đó dùng vào nơi hữu dụng. Quan trọng nhất là bồi dưỡng giảng sư, thu âm giảng kinh ghi hình. Thiết bị phòng thu âm phải chuyên nghiệp. Ngoài ra, ngày thường chúng ta cũng cúng dường những vị pháp sư này trên đời sống vật chất để họ không hề lo lắng, tâm có thể an địnhnghiên cứu Phật pháp Đại thừa, giảng từng bộ đều ghi hình thu âm, tương lai sẽ là một bộ Đại Tạng kinh sống. Bạn nghĩ xem ý nghĩa đến dường nào, bất cứ nơi nào, chúng sanh thích nghe kinh gì thì chúng ta liền phát ra kinh luận đó. Ngoài giảng kinh nói pháp, chúng ta còn giúp người niệm Phật. Hai mươi bốn giờ Phật hiệu không gián đoạn, tượng Phật trang nghiêm nhất hiển thị trên màn hình tivi. Khán giả xem thấy Phật A Di Đà, nghe được Phật hiệu của A Di Đà liền theo đó mà niệm. Ở nhà cũng có thể tu Phật thất, cũng có thể một ngày nghe kinh tám giờ, niệm Phật tám giờ. Bạn thấy phước báu của chúng ta không hề khác biệt người xưa. Người xưa tốn nhiều sức lực xây dựng rất nhiều đạo tràng mới có thể phổ độ chúng sanh. Ngày nay chúng ta dùng một đài truyền hình vệ tinh là đủ. Không mua kênh của người khác, vì sẽ phải bị người ta khống chế thời gian. Nếu các vị chân thậttài lực, có loại trí tuệ này thì nên làm một kênh chuyên nghiệp, truyền thanh truyền hình vệ tinh của Phật giáo, phát sóng trên toàn thế giới. Ngày nay chúng ta chưa đủ sức thì cũng đem cách nghĩ cấu tưởng này truyền đạt cho mỗi vị đồng tu. Mọi người đều có chung ý niệm, mỗi người thường hay nghĩ thì sự việc sẽ thành công, tâm tưởng sự thành. Nếu chỉ có một người nghĩ thì sức mạnh rất yếu kém. Mọi người cùng nghĩ đến thì Phật sẽ giúp. Lý cư sĩ thường nói, tuy chúng ta không có phước báu nhưng Phật A Di Đà có phước báu. Xây dựng một đạo tràng lớn như vậy cần tốn bao nhiêu tài lực?, dù không dám nghĩ đến tài lực nhưng chúng ta vẫn cứ tiếp tục nghĩ. Phật A Di Đà sẽ đưa tiền đến, cần bao nhiêu ngài sẽ đưa đến bấy nhiêu, nhất định sẽ thành tựu. Đó là mục đích “thỉnh Phật trụ thế”, một việc vô cùng quan trọng. Thành lập viện dịch kinh Thế giới hiện tại do vì giao thông thuận tiện, các mặt đời sống mở rộng, mỗi khu vực đều cần phảiPhật pháp. Chúng ta làm gì có nhiều giảng sư đến các nơi để giảng kinh nói pháp. Việc đó vô cùng khó khăn. Cho nên nhờ vào khoa học kỹ thuật, số ít giảng sư cũng có thể đem Phật pháp phổ biến đến toàn thế giới. Nếu có cơ duyên hơn nữa, chúng ta có thể phiên dịch hoa ngữ thành mấy loại ngôn ngữ cần thiết để hoằng pháp trên toàn cầu, để mọi người đều được lợi ích thù thắng của Phật pháp, giá trị ý nghĩa này sẽ càng sâu rộng. Hiện tại nhờ khoa học nên thuận tiện hơn ngày trước rất nhiều. Ngày nay chúng ta thiếu kém chính là thiếu kém hộ pháp, không có người phát tâm hộ trì. Vì không có người phát tâm hộ trì, nên công trình phiên dịch tương đối gian nan. Dịch kinh phải theo qui củ xưa, nhất định không thể một hai người độc lập dịch một bộ kinh. Ngày trước Trung Quốc dịch kinh đều do tập thể cùng nhau làm. Phàm hễ tham gia dịch kinh, đó là một pháp hội. Thỉnh giảng sư đến giảng bộ kinh này, người dịch kinh thảy đều tham gia nghe giảng, chân thật nghe hiểu, tường tận rồi mới khởi bản thảo. Có nghi hoặc lập tức phải hỏi. Sau khi dịch xong bản thảo, phải đọc cho mọi người nghe, xem đại chúngý kiến gì không, có từ ý hay hơn không để nhuận văn, tu đính, làm cho bản dịch được tận thiện tận mỹ, mọi người tiếp xúc quyển kinh đều có thể sanh tâm hoan hỉ. Cho nên bản dịch không nên do một người làm mà là sáng tác của tập thể. Chúng ta xem thấy kinh Phật đều có tên người phiên dịch trên đề kinh. Người trên đề kinh là chủ biên trong đạo tràng dịch kinh đó, không nhất định do ông ấy dịch. Phải nêu tên tuổi ông ấy để gánh trách nhiệm đối với bản dịch này, cũng nhằm chứng minh bản dịch này không sai, có thể lưu thông, được họ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Lịch sử ghi chép, dịch trường của đại sư La Thập hơn bốn trăm người, dịch trường của đại sư Huyền Trang hơn sáu trăm người, đều là chuyên chức. Ngày trước cư sĩ Thẩm Gia Trinh ở Hoa Kỳ, một người có tâm, đã mời không ít người dịch kinh điển chữ Hoa thành chữ Anh, tốn kém khá nhiều tiền. Số lượng dịch ra cũng tương đối khả quan. Khi tôi đến Newyork, ông dẫn tôi tham quan thư viện của đại học Newyork. Ông đã mượn mấy căn phòng trong thư viện làm thành thư viện Phật giáo. Ông nói với tôi, nhiều năm nay ông đã mời người đến phiên dịch kinh Phật sang tiếng Anh, được một đống lớn bản thảo nhưng đều không thể dùng. Tôi gật đầu, đích thực không thể dùng, vì sao? Chỉ tìm một số người biết Trung văn lẫn Anh văn để phiên dịch. Người phiên dịch không hiểu Phật pháp nên chỉ dịch ý nghĩa, cũng giống như cuốn Anh Văn Phật học Từ Điển của người nước ngoài phiên dịch. Trước đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói với tôi, có một học giả Phật học Hoa Kỳ đến Đài Loan tham quan du lịch. Nghe nói Đài Trung có một lão cư sĩ Lý Bỉnh Namđại đức Phật học, ông liền đến thỉnh giáo lão cư sĩ và đưa ra một số câu hỏi. Lão sưgiải thích cho ông ấy, nhưng con người này rất không hài lòng, lắc đầu tỏ ra không vừa ý. Lão sư Lý liền thỉnh giáo với ông ấy thông qua phiên dịch, sau đó lão sư Lý cũng lắc đầu không đồng ý. Cuộc trao đổi rất khó khăn, may mắn ông ấy có mang theo một quyển sách Phật Học Từ Điển dịch ra tiếng Anh. Lão sư Lý đề nghị ông tra thử “nhị túc tôn” là gì. Chúng ta đã biết quy y Phật nhị túc tôn, nhưng tra thử xem cách giải thích “nhị túc tôn” trong từ điển Phật học tiếng Anh như thế nào? Ông ấy liền dịch lại, “nhị túc tôn” là hai cái chân tôn quý nhất. Không sai. “Nhị” là hai, “túc” là chân, “tôn” là tôn quý. Lão sư Lý nghe rồi liền cười, không nói nữa. Cuối cùng “ông đi được rồi, Phật pháp nước ngoài của các ông tôi hiểu rồi”. Đó là biết Hoa lẫn Anh nhưng không biết Phật pháp, hoàn toàn dựa trên mặt chữ để dịch. Thật đúng như Phật đã nói “Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan”. Ba đời chư Phật đều bị hàm oan. Trong kệ khai kinh đã giảng “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thật không dễ dàng. Ngay lúc đó tôi liền kiến nghị với cư sĩ Thẩm Gia Trinh rằng ông đã làm sai, phiên dịch rất quan trọng. Bạn muốn dịch một bộ kinh thì trước tiên phải tìm đại đức có tu có học đối với bộ kinh này; mời ông ấy đến giảng; đồng thời mời người tham gia công tác dịch kinh đến nghe. Phải nghe qua một cách tường tận thông suốt; có bất cứ nghi vấn nào phải hỏi ngay, sau đó mới có thể hạ bút khởi bản thảo. Khi bản thảo thành tựu vẫn phải tiếp tục thảo luận tu đính lại. Tốt nhất phát tặng bản thảo cho những đại đứcnghiên cứu có tu có học xem. Mời họ đến đính chính, sau đó mới làm thành một quyển hoàn thiện, có vậy thì việc lưu thông sẽ không gặp vấn đề. Dịch kinh rất khó và rất quan trọng, dịch kinh Hoa Nghiêm lại càng khó hơn. Trong mỗi câu mỗi chữ của Hoa Nghiêm đều mang ý nghĩa biểu pháp sâu sắc. Nếu bạn không hiểu nó thì toàn văn lại biến thành “hai chân cao quý”, chẳng ra thứ gì. Cho nên phiên dịch quyết không được vài người ngồi trong gian phòng nhỏ mà nhất định phải như Trung Quốc ngày xưa. Tức là công khai tổ chức thành viện dịch kinh, chuyên môn bồi dưỡng nhân tài dịch kinh, mời cao tăng đại đức chuyên nghiên cứu kinh đó đến giảng, mọi người cùng đến nghe, cùng học tập, sau đó mới có thể hạ bút viết bản thảo. Không thể khinh xuất tốn một ít tiền mời người đến phiên dịch là được. Tôi không biết tiếng Anh, nên tôi rất khó tin tưởng quyển kinh dịch sang tiếng Anh, vì thế tôi luôn phân vân chọn lựa. Một lần, tôi đề nghị cư sĩ Thẩm Gia Trinh rằng tôi nhận thấy thiên Niệm Phật Luận của Đàm Hư lão pháp sư đại khái có lẽ không đến nỗi vấn đề gì lớn. Đó không phải là kinh. Thiên khai thị này là ghi chép của pháp sư Ấn Quang, rất dễ hiểu. Bên Thẩm cư sĩ lại sẵn có bản tiếng Anh, tôi đề nghị lấy thiên tiếng Anh này. Năm đầu in kinh Vô Lượng Thọ số lượng không nhiều, rất mỏng, tôi liền đem Niệm Phật luận, bản Trung Anh, để vào phía sau kinh Vô Lượng Thọ, cùng lưu thông một lúc. Khi đó tôi in mười ngàn cuốn truyền đến các nước. Một thời gian sau, tôi đi giảng kinh ở Vancouver, Canada, có một bác sĩ người Cannada đến nói với tôi rằng không nên in phần sách phía sau nữa. Tôi hỏi vì sao. Ông ấy nói: “Phần tiếng Anh này, người nước Anh xem không hiểu, người Trung Quốc xem cũng không hiểu”. Tôi nghe thật đau lòng. Về sau hễ là bản dịch tiếng Anh, tôi đều không dám in, hãy cứ để người ngoại quốc tự lưu thông, còn tôi không dám in nữa. Do đó chúng ta cần bồi dưỡng nhân tài dịch kinh, họ phải chân thật vừa có tu học nơi Phật pháp vừa thông đạt hai loại ngôn ngữ mới có thể đảm nhiệm công tác này. Nếu không thông đạt Phật phápkinh luận thì dù cơ bản văn học tốt đến đâu cũng đều không thể đảm nhiệm công tác này. Kinh Hoa Nghiêm đã nói “Phật pháp không người nói, tuy có trí cũng không thể hiểu”. Người thế gianthông minh trí tuệ cỡ nào cũng không cách gì hiểu được Phật pháp, bởi vì kinh điển của Phật luôn luôn là ý ở ngoài lời, mỗi một chữ trong một câu nói đều bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Ba nguyện sau cùng Mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền thực ra chỉ có bảy: lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối, tuỳ hỉ, thỉnh chuyển pháp luân, và thỉnh Phật trụ thế. Ba nguyện sau cùng là hồi hướng. “Thường tuỳ Phật học” hồi hướng chánh giác, “Hằng thuận chúng sanh” hồi hướng chúng sanh, “Phổ giai hồi hướng” là hồi hướng pháp giới. Hồi hướng chánh giác, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng pháp giới, là hồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như. Do đó, chân như, tự tánh, và pháp giới có cùng một ý nghĩa. Cái gì gọi là pháp giới? Nhất tâm chính là pháp giới. Giới gồm hai ý nghĩa: một là phần, một là tánh. Phần là giới tuyến, ví dụ quốc gia với quốc gia có giới tuyến; tỉnh với tỉnh, hay huyện với huyện cũng có giới tuyến. Tánh là tự tánh, nhà Phật gọi là nhất chân pháp giới, cũng chính là chân như. Tóm lại, chúng ta thành tựu chính mình, vô biên công đức, quyết không tạo tội nghiệp. Đó là cách phá bỏ tập khí đố kỵ ngạo mạn từ vô thỉ kiếp. Thỉnh giảng sư giảng kinh và thỉnh pháp sư thường trụ vẫn phải dùng đến khoa học kỹ thuật cao mới có thể đem Phật pháp phát triển đến toàn thế giới. Từng bước bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, bồi dưỡng nhân tài phiên dịch, số người không cần nhiều nhưng đó đích thực là viện nghiên cứu mô hình nhỏ. Những người tham gia phải chân thật chịu phát tâm, chân thật tu hành. Kinh Hoa Nghiêm nói tiêu chuẩn phải là đại tâm phàm phu. Vì sao phàm phu học Phật không thể thành tựu? Không phải bạn không phát tâm, không phải bạn không phát nguyện, cũng không phải do bạn không có dụng công. Mỗi ngày bạn phát nguyện trước Phật Bồ Tát một cách rất nỗ lực, rất dụng công, nhưng vì sao không hiệu quả? Vì tâm lượng quá nhỏ. Tâm lượng của bạn không cách gì đột phá được sáu cõi luân hồi. Sáu cõi luân hồi là một giới tuyến. Tâm lượng bạn nhỏ trong giới hạn của nó nên bị nó bao lấy, làm cho bạn không thể đột phá ra. Chúng ta tu hành vô lượng kiếp, đời đời kiếp kiếp đến nay vẫn rơi vào bước này, phải hiểu rõ lỗi lầm cuối cùng do đâu? chính do tâm lượng quá nhỏ, nên nhất định phải phát đại tâm. Đại tâm mới phá vỡ sáu cõi. Đã phá vỡ chẳng phải vượt khỏi sao? Ta lớn hơn so với nó thì ta sẽ vượt qua dễ dàng. A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát vì sao có thể vượt ra khỏi tam giới? Vì tâm lượng các ngài còn lớn hơn tam giới sáu cõi nên các ngài có thể vượt qua. Phương pháp vi diệu là đoạn phiền não vượt tam giới. Tuy nhiên, phương pháp này vừa khổ, lại rất khó tu. Phật dạy chúng ta, tâm lượng vừa mở rộng thì liền đột phá. Dù bên ngoài vẫn còn một ải là mười pháp giới nhưng tâm lượng vẫn cứ mở rộng, chúng ta cũng có thể vượt hơn. Cho nên Phật cùng pháp thân đại sĩ, tâm bao thái hư lượng khắp pháp giới. Mười pháp giới ở trong tâm lượng của họ, vậy là họ siêu việt, bao gồm tất cả phiền não tập khí không dừng tự nhiên biến mất, vì sao? Phiền não tập khí đều từ tâm lượng nhỏ hẹp mà biến hiện ra. Khi tâm lượng lớn, phiền não tập khí từ vô lượng kiếp đến nay không cần phá, tự nhiên liền không còn. Phương pháp này thật xảo diệu. Từ đó chúng ta mới chân thật tin tưởng, thế tônchúng sanh thế giới của chúng ta nói pháp, “chỉ có pháp nhất thừa, không hai cũng không ba”. Lời nói này của Phật không hề sai, Phật vì chúng ta nói pháp chính là dạy chúng ta ở ngay cuộc sống này viên mãn làm Phật. Bạn làm Bồ tát, Phật đều lắc đầu vì như thế chưa đủ. Không những muốn bạn làm Phật mà còn muốn bạn phải làm Phật cứu cánh viên mãn. Bốn giáo của tông Thiên thai, Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật, Biệt Giáo Phật đều không làm. Trở thành Viên Giáo Phật mới là mục đích chân thật để thế tôn xuất hiệnthế gian. Ngài giáo huấn tất cả chúng sanh, nếu chúng ta không thông hiểu ý nghĩa, không thể đạt đến trình độ này thì chúng ta không phải là đệ tử của thế tôn. Đã là học trò thì nhất định không phụ lòng kỳ vọng của thầy giáo, ngay một đời nhất định phải làm Phật. Nếu y theo Hoa Nghiêmkinh Vô Lượng Thọ thì chắc chắn sẽ không có vấn đề. Hai bộ kinh này chính là bảo bối, là pháp bảo vô thượng. Hy vọng đồng tu chúng ta người người đều trân trọng. Mười nguyện của Phổ Hiền, trong đó bảy điều phía trước từ lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối, tuỳ hỉ, cho đến thỉnh chuyển pháp luân, và thỉnh Phật trụ thế, đều là nguyện. Hơn nữa trong mỗi điều đều đầy đủ những điều khác, đó mới là giáo nghĩa của Hoa Nghiêm. Ba nguyện phía sau thuộc về hồi hướng. Nguyện thứ tám, “Thường tùy Phật học” “Thường tùy Phật học” là hồi hướng Bồ Đề, hay nói cách khác là học Phật. Buổi chiều hôm nay Lý cư sĩ giới thiệu hai vị đồng tu đến thăm tôi. Hiện tại họ đang làm công tác phúc lợi xã hội, thế nhưng lại ít nghe nói đến Phật pháp hoá đời sống. Đến khi nghe tôi giảng kinh, họ thấy dường như Phật pháp đều có thể áp dụng ngay trong đời sống nên rất hoan hỉ, tán thán. Tôi nói với họ rằng, việc Phật pháp hoá đời sống không phải do tôi mà do Thích Ca Mâu Ni Phật vốn dĩ đã nói như vậy. Chúng ta làm sao có thể đoạt lấy công đức của Phật làm của riêng mình. Người thế gian thông thường nghĩ đến học Phật đều cảm thấy kỳ lạ, con người vì sao phải học Phật, cứ làm người tốt, thì tại sao phải học Phật? Từ đó, học Phật gần như là việc không bình thường, rồi họ sanh ra hiểu lầm to lớn đối với Phật pháp, họ không biết Phật là gì? Phật là trí tuệ, học Phật là học trí tuệ, học giác ngộ; nói cách khác, học Phật chính là học tập một đời sống trí tuệ cao độ chân thật giác ngộ. Đây là việc rất bình thường. Thực ra, xã hội hiểu lầm đối với Phật pháp do chúng ta chưa đem giáo nghĩa và nguyên ý của Phật pháp nói cho mọi người nghe. Vậy phải làm thế nào để tuyên dương? Nhất định phải “Tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức”. Tuân là tuân thủ, tu là học tập. Bồ Tát Phổ Hiền chính là mô phạm tốt cho chúng ta. Trong Phật pháp Đại thừa, các vị cần biết, ba vị Bồ tát đại diện tổng cương lĩnh tu học Phật pháp gồm ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Văn Thù. Bồ Tát Phổ Hiền đại biểu thực tiễn, nói được phải làm được, thấy được phải làm được. Văn Thù biểu thị trí tuệ, Quan Âm biểu thị từ bi. Thế Tôn trong kinh Đại thừa nói, “Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều nhờ tu học ba pháp môn này mới thành tựu được Phật quả vô thượng”. Phật quả vô thượngtrí tuệ cứu cánh viên mãn. Chúng ta dùng cụm từ “Phật quả vô thượng”, người thông thường nghe không thể lý giải nổi. Họ không thể biết được hàm nghĩa chính xác trong cụm từ này, nên cứ hiểu sai cho rằng nó là thành tựu trong tôn giáo. Họ không biết được đó là học vấn của chính mình. Cho nên những danh từ thuật ngữ chuyên môn trong nhà Phật cần được trình bày rõ hơn để phù hợp với cách nói của người hiện tại và tránh bị hiểu lầm. Tóm lại, ở nguyện thứ tám, hồi hướng chính là mong cầu, hồi hướng Bồ Đề. Chúng ta phải truy cầu trí tuệ cao độ cứu cánh viên mãn. Nguyện thứ chín, “Hằng thuận chúng sanh” Ý nghĩa của điều này rất rõ ràng, hồi hướng chúng sanh. Vì sao phải hồi hướng chúng sanh? Tôi đã từng nói qua với các vị, trong kinh Hoa Nghiêm, tận hư không khắp pháp giới, tất cả chúng sanh cùng với chúng tamột thể, cùng một tự tánh, cùng một chân tâm, cùng một lý thể biến hiện ra. Cảnh giới tuy không giống nhau nhưng thể tương đồng, giống như thân thể chúng ta. Nếu muốn nói thân thể này là tự thể của chính mình thì mọi người dễ hiểu, trong thân thể có rất nhiều tổ hợp tế bào, mỗi tế bào đều là chính mình, không phải là người khác. Móng tay của chúng ta là chính mình, tóc của chúng ta cũng là chính mình. Nhưng vì sao phải cắt bỏ nó, chẳng phải nó đều là chính mình sao? Sau khi hiểu rõ đạo lý thô cạn này, bạn tỉ mỉ mà nghĩ và quan sát. Kinh Phật nói, mười pháp giới y chánh trang nghiêm tất cả là do ta. Tự - tha không hai, sanh - Phật bình đẳng, chúng sanh và Phật là bình đẳng, cũng là một thể. Cho nên nhất định phải biết hồi hướng cho chúng sanh. Hồi hướng thế nào? Tạm dùng lời đơn giản để nói là lấy tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi quan tâm tất cả chúng sanh; yêu thương và toàn tâm toàn lực giúp đỡ như giúp đỡ chính mình. Người không biết quan tâm giúp đỡ chúng sanh chứng tỏ người này không biết quan tâm chính mình. Thế gian thường nói, con người phải biết tự yêu thương, vậy cái gì là chính mình? Đó tận hư không khắp pháp giới, thế nhưng rất ít người hiểu được. Nếu chúng ta không lướt qua kinh giáo Đại thừa thì chúng ta cũng không hiểu. Chúng taduyên phận tiếp xúc với kinh giáo Đại thừa, đó là thiện căn phước đức nhân duyên từ vô lượng kiếp đã chín muồi mới có cơ hội thù thắng như vậy. Sau khi thông hiểu, nhất định chúng ta phải làm cho được, phải biết quan tâm xã hội, thương yêu toàn thế giới, hơn nữa còn phải dùng tâm bình đẳng, không thể có “đây nồng kia nhạt”. Đó là đạo lý. Còn trên sự thì sao? Trên sự đích thực có xa gần khác biệt, vì duyên khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói “Ngũ châu nhân quả”, trong Ngũ châu nhân quảnhân quả khác biệt, bình đẳng. Tâm của chúng ta bình đẳng, nguyện là bình đẳng, hiểu là bình đẳng, tánh bình đẳng, thế nhưng trong gia đình, cha mẹ rất gần với chúng ta, đó là duyên phận, vậy chúng ta phải thương yêu, giúp đỡ họ. Đương nhiên đầu tiên giúp đỡ cha mẹ, sau đó người trong nhà, hàng xóm lân cận, bà con trong làng, rồi tiến ra xa một chút, vì duyên không bình đẳng. Trên lý nhất định phải bình đẳng, ngay trong bình đẳng có khác biệt, ngay trong khác biệt có bình đẳng, nên gọi là “viên dung không ngại hành bố, hành bố không ngại viên dung”. Chúng ta phải tu học, phải hoằng pháp lợi sanh như vậy, mới là hồi hướng chúng sanh Nguyện thứ mười, “Phổ giai hồi hướng” Phổ giai hồi hướnghồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như, cũng chính là nói chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, đều tương ưng với tự tánh thì mới đúng. “ĐỨC” Chủ đề tổng cương lĩnh giảng kinh là “tác sư tác phạm”, học vi nhân sư, hành vi thế phạm. Chư Phật Bồ Tát trong chín pháp giới thị hiện ra nhiều hình tướng, nhằm giúp tất cả chúng sanh chưa từng giác ngộ, vẫn còn đang trong tình huống mê hoặc; các ngài biểu diễn ra một người giác ngộ, biểu diễn một đời sống trí tuệ cao độ để chúng ta xem thấy, nghe thấy, và tiếp xúc được, trong lòng liền cảm ngộ, có thể sanh tín tâm, sanh hoan hỉ, và tương lai học tập với các ngài. Đó chính là đức của Đại sĩ, đức của Phật Bồ Tát, và thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như vậy, mười phương thế giới chư Phật, phàm hễ dùng tâm thanh tịnh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tâm hạnh tất nhiên cũng tương ưng với hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, chúng ta gọi là cùng một phương hướng, cùng một mục tiêu. “CỤ TÚC VÔ LƯỢNG HẠNH NGUYỆN” Vô lượng là không cách gì tính đếm, vô lượng “hạnh”, vô lượng “nguyện”. Hạnh cùng nguyện bao gồm cả thảy đời sống của chúng ta, không chỉ một đời này mà còn đời quá khứ và đời vị lai, quá khứ vô cùng vị lai vô tận. Cho nên bên trên mới để hai chữ “vô lượng”. Hiện tại hạnh của chúng tahành vi đời sống, Phật pháp thường dùng ba chữ để khái quát, “thân khẩu ý”, chúng ta gọi là hành vi ba nghiệp. Thân là tạo tác của thân thể, ngữ là ngôn ngữ, ý là tư tưởng, kiến giải. Chúng ta khởi tâm động niệm bao gồm tất cả hành vi. Hành vi vô lượng vô biên đều không ngoài ba loại lớn này, còn gọi là hành vi ba nghiệp, phải tương ưng với mười cương lĩnh của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu trái với mười đại nguyện hay mười cương lĩnh thì hành vi này coi như sai lầm, còn nếu tư tưởng hành vi của chúng ta thảy đều tương ưng với mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, thì cho dù không thể làm đến được tương ưng đầy đủ cũng có thể đạt được một trình độ tương ưng nào đó. Giống như chúng ta học sơ học, dù chưa đạt trình độ cấp bậc nào nhưng có định hướng mục tiêu, vậy cũng được. Tuy bạn chưa đi, chưa khởi bước nhưng phương hướng của bạn đã rất chính xác, hạnh nguyện của bạn chính xác, đó là hạnh Phổ Hiền. Tất nhiên tiêu chuẩn hạnh Phổ Hiền khá cao, người tu học thông thường chúng ta rất khó đạt đến tiêu chuẩn của ngài. Tiêu chuẩn của ngài cũng có rất thấp, nhưng mức thấp nhất chúng ta cũng không thể đạt đến, vậy phải làm thế nào? Phải thuận theo phương hướng, thuận theo mục tiêu. “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện an trụ nhất thiết pháp trung”, câu kinh văn này hàm nghĩa rất sâu rộng. Ở đây chúng ta chỉ tiết lượt một số cương lĩnh tu học, tiện lợi ngay trong cuộc sống thường ngày; đem những hành vi sai lầm của chúng ta, y theo điều mục này để sửa đổi. Chúng ta nói qua tam phước, lục hoà, tam học, lục độ, sau cùng là mười nguyện Phổ Hiền. Khi Tịnh tông học hội của chúng ta thành lập, tuyển chọn năm khoá mục này, rất dễ ghi nhớ. Mỗi giờ mỗi phút đều y theo mười điều mục này để tu học. Năm khoá mục này bao gồm hành môn vô lượng vô biên của Bồ Tát. Học Phật nếu chúng ta xem thường việc tu sửa tư tưởng hành vi thì trong Phật pháp, không luận nỗ lực dụng công thế nào để cầu giải, thậm chí nói pháp được hoa trời rơi rụng cũng không ích gì. Lão sư Lý thường nói “đáng sanh tử thế nào thì vẫn phải sanh tử như thế”, chính là nói so với liễu thoát sanh tử và ra khỏi ra cõi không có liên quan.
(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1362)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 2199)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4987)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4438)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 12317)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6743)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4350)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4759)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 6035)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12619)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 5165)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 6060)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 8096)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5391)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5627)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3627)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 5075)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7737)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7407)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 6091)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5016)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4896)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5777)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12540)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11777)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12946)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8510)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8489)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6886)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8607)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6280)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 7048)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5549)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9388)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9669)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6226)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8770)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6537)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6625)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8378)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10767)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9359)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8144)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6211)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8940)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 7053)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6735)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 10448)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 9074)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8564)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 9175)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7515)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7116)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6495)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 6064)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 8101)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7959)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11214)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11805)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7921)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10311)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 8125)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8257)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7635)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8265)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7202)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8373)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10343)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11886)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9860)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10420)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9412)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11650)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8358)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10315)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10784)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10526)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11641)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9467)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22838)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10574)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10138)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10336)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10449)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10390)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10827)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 13168)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14719)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13420)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12746)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9703)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11250)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10858)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14584)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12492)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11786)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11765)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23535)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11392)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10591)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant