Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời

08 Tháng Ba 201818:06(Xem: 6090)
Những bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời

Những bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời


Thích Như Điển

 Diễn đọc: Quảng Hương


Ai trong chúng ta cũng có nhiều khúc quanh quan trọng trong cuộc đời. Ít ai sinh ra mà được suông sẻ, kể từ khi lọt lòng Mẹ cho đến khi hơi thở cuối cùng đến báo cho ta biết rằng: Ở trần gian nầy vẫn tồn tại, nhưng ta lại phải ra đi để tiếp tục một chuyến đăng trình khác. Có người đi lên, có người đi xuống, có người đi ra, có người đi vào; nhưng cũng có lắm người chẳng biết đi mô cả. Điều nầy liên hệ gì với cuộc sống của chúng ta trong hiện tại hay trong quá khứ và dẫn đến vị lai thì thế nào nữa đây? Đố ai biếtđược một quá khứ dài đăng đẳng, một tương lai mịt mù và một hiện tại không định hướng như vậy?

Trong Kinh Phật Bản Hạnh thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh hay Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh từ quyển thứ 11 cho đến quyển thứ 13 thuộc bộ Bản Duyên, chư Tổ kể lại lời Phật qua nhiều nhân duyên khác nhau để Ngài đi vào đời. Có những loại duyên thuận, mà cũng lắm duyên nghịch. Nghịch hay thuận cũng do nghiệp lực chi phối chúng ta, nhưng ít người quan tâm cũng như không hiểu nhân duyên là gì, nên mới than trời trách đất, mà chẳng ai tự chê mình đã vụng đường tu bao giờ. Khi Đức Phật thành đạo quả dưới cội Bồ Đề, Ngài đã được chư Thiên cung thỉnh cả ba lần, nhưng Ngài quyết tâm vào Niết Bàn, vì Ngài nghĩ rằng những lời Ngài sắp nói ra chẳng ai có thể hiểu cả. Cuối cùng Vua Trời Đế Thích và Vua các cõi sắc giới khác cung thỉnh Ngài, Ngài mới mỉm cười đồng ý,cái mỉm cười ấy chứng tỏ rằng Ngài đã hoan hỷ. Và sau khi đã chiêm nghiệm nhiều lần về việc quán nhân duyên, Ngài thấy rằng trong chúng sanh có nhiều loại người khác nhau: Loại thì ương ngạnh, khó độ cũng như khôngnhân duyên với Phật Pháp thì dẫu cho Ngài có ở đời lâu bao nhiêu đi chăng nữa, thì những người nầy quyết sẽ khôngbao giờ đến với Đạo; loại thứ hai là những chúng sanhcăn tánh nhậm lẹ, họ không cần ai dạy bảo hết, họ vẫn có thể chứng quả Thánh Hiền, loại nầy cũng không cần Ngài độ. Duy chỉ có loại chúng sanh vừa thiện mà vừa ác thì Ngài quan tâm đến, nên đã quyết định ở lại trên cõi đời nầy để thuyết pháp độ sanh. Trong loại nầy Ngài phân tích rất rõ ràng là các chúng sanh nầy có 50% thiện và cũng có 50% ác. Từ ác những chúng sanh nầy có thể tiến lên thiện, mà từ thiện nầy nếu không tu học cũng dễ trở thành ác. Ngài giải thích rằng: Nếu chúng sanh nào tưởng nhiều, tình ít thì khi lâm chung, những chúng sanh nầy sẽ dễ dàng siêu thoát; còn những chúng sanh nào tình nhiều, tưởng ít đến khi lâm chung bị cáitình nó níu kéo, nên tâm thức của người đó dễ đi xuống hơn là đi lên. Vậy chúng ta phải đón nhận tấm lòng cao cả của Ngài. Ngài đã vì chúng ta mà nán lại thêm 45 năm nữa trên trần thế nầy để thuyết pháp độ sanhnếu không có 45 năm ấy thì tam tạng Thánh Điển sẽ không có, chúng ta lấy đâu mà dò tìm .

Cũng trong Kinh Phật Bản Hạnh nầy, chính Ngài đã tường thuật việc xuất gia tu học của Ngài cũng như những chướng duyên trong khi còn ở tại gia với bao nhiêu thử thách tại cung thành Ca Tỳ La Vệ ấy. Một điều quan trọng chúng ta nên nhớ là: Nếu Thái tử Tất Đạt Đa không đi xuất gia tìm Đạo thì danh tiếng của Ngài nhiều lắm cũng chỉ nằm trong xứ Ấn Độ mà thôi! Chính Ngài đã hy sinh tất cả, nênđã được tất cả. Ngày nay khắp năm châu bốn bể qua hơn 2.600 năm lịch sử đã chứng minh được điều ấy. Thiết nghĩ rằng chúng ta không cần phải nhắc lại nhiều nữa. Chúng ta chỉ biết niệm ân Ngài và cố gắng tu học làm sao để bào mòn được bản ngã, vắng bớt trong nẻo luân hồi, để thấy rằng sự hy sinh xả kỷ của Ngài đối với chúng ta là một tư tưởng, một đạo lý quá tuyệt vời, dẫu cho trong quá khứ hay nhẫn đến trong vị lai xa xôi nữa, chưa chắc gì những đạo khác có được một vị giáo chủ như là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Vua Tịnh Phạn chưa bao giờ muốn rằng con của mình sẽ đi xuất gia tầm đạo và thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhà Vua chỉ muốn con của mình sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, như một trong hai lời đoán của Đạo Sĩ A Tư Đà lúc Thái tử Tất Đạt Đa mới sinh ra mà thôi. Do vậy mà nhà Vua đã không từ bỏ một kế hoạch nào để làm cho Thái tử phải bị vướng chân mà ở lại với đời. Đã có lần một vị cận thần thưa với Vua Tịnh Phạn rằng: “Dẫu cho có dùng một ngàn sợi dây đồng cũng không thể  buộc ràng được chân của Thái tử, nhưng chỉ cần một sợi tóc của mỹ nhân thì có thể ràng buộc được bước chân của Thái tử“. Nghe lời tâu ấy có lý, nhất là vua thấy Thái tử đã trưởng thành, nên một cuộc thi bắn cung, rồi ném tạ, đô vật, cỡi ngựa v.v... đã được tổ chức, và môn nào Thái tử cũng dẫn đầu, ngay cả Hoàng Thân Đề Bà Đạt Đa cũng không thể sánh kịp, nên Bà Mangala, Mẹ của Đề Bà Đạt Đa lúcnào cũng lấy làm lo, chẳng yên dạ chút nào vì bà mong muốn Đề Bà Đạt Đa sẽ cưới được công chúa Da Du Đà La. Trong khi đó thì Thái tử Tất Đạt Đa chiến thắng không vì sắc đẹp, không vì danh, không vì lợi mà cũng chẳng phải vì sự giàu sang phú quý, Ngài đã thực hiện những điều ấy chỉ vì làm thỏa mãn ước vọng của Vua Tịnh Phạn mà thôi.

Lấy vợ rồi, Thái tử cũng chẳng thấy vui, Ngài lại còn tìm cách để xa dần công chúa Da Du Đà La bằng nhiều hình thức khác nhau,như đi ra khỏi bốn cửa thành để xem những sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Đi đến đâu Ngài cũng được ca tụng là một Thái tửlòng từ, bởi Ngài luôn tỏ ra xúc động với những nỗi khổ đau mà Ngài được chứng kiến. Từ khi hiểu rõ được nỗi khổ sanh, lão, bệnh, tử của kiếp nhân sinh, Thái tử lại càng khắc khoải suy tư. Vua Tịnh Phạn thấy không xong, nên ra lệnh đóng kín bốn cổng thành của hoàng cung. Tương truyền rằng, Đức Vua sợ Thái tử ra đi tìm chân lý vào một ngày đẹp trời nào đó, nên Vua đã cho đóng 4 cánh cửa thật lớn màkhi mở cửa ra hay đóng lại đều nghe được âm thanh từ rất xa. Đây cũng là một cách để cản ngăn sự ra đi tìm đạo của Thái tử. Thế nhưng vào đêm mồng Tám tháng Hai của hơn 2.600 năm trước, sau những yến tiệc linh đình tại cung vua, Thái tử đã chiêm nghiệm ra rằng những hình hài của những cung nữ, ngay cả Da Du Đà La cũng không có gì đáng nói cả, chẳng qua chỉ là những phấn son lòe loẹt trâytrét đầy mình và giờ đây những thứ ấy hòa quyện với mồ hôi, đã trở nên lem luốc và hôi hám. Tuy nhiên Ngài lúc ấy vẫn chưa quyết định ra đi, mãi cho đến khi chư Thiên hiện ra và báo cho Thái tử biết rằng: Giờ ra đi đã đến, giờ ra đi đã đến! Lúc ấy Thái tử mới đánh thức Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc, vốn là hai chúng sanh có duyên trong nhiều kiếp với Ngài và trong đời nầy sinh ra cùng ngày tháng năm với Ngài để trở thành những người hầu cận tâm phúc của Ngài.

Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc đã ráng sức đưa Thái tử vượt thành trốn khỏi hoàng cung. Chư Thiên đã bịt tai và bịt mắt hết tất cả mọi người đang lúc ngủ say nêndù có những tiếng động do người, ngựa gây ra nhưng chẳng ai nghe được bất cứ một âm thanh nào, thậm chí khi cánh cửa Đông của cung thành Ca Tỳ La Vệ bình thường khi đóng hay mở thì âm thanh vang xa chừng năm bảy dặm, thế mà đêm mồng Tám tháng Hai năm ấy không một ai, kể cả VuaTịnh Phạn, Hoàng Hậu Ba Xà Ba Đề và ngay cả Da Du Đà La cũng chẳng ai hay biết gì cả. Đúng là chư Thiên có phép màu, nên mới giúp Thái tử hoàn thành được tâm nguyện của mình trong lúc khó khăn như thế. Ngay cả khi đã vượt ra khỏi cung thành Ca Tỳ La Vệ, ngựa Kiền Trắc theo sự điều khiển của Sa Nặc thẳng hướng qua dòng sông A Nô Ma, để chẳng ai nghe được tiếng động và phải bay mới kịp thời gian trước khi ánh thái dương ló dạng khiến cho mọi người dễ nhận diện ra, nên 4 vị chư Thiên cũng đã nâng 4 chân củangựa Kiền Trắc, không cho chạm mặt đất, bay đi trên không trung để hộ trì tâm nguyện của một vị Bồ Tát xuất trần. Khi vào sâu trong rừng Ưu Lâu Tần Loa, Thái tử thấy cảnh vật nên thơ và yên tĩnh quá, trước mắt Ngài có một chư Thiên đã hóa ra làm người thợ săn, trên mình mặc chiếc y vàng và Thái tử đã không ngại ngùng cởi hoàng bào của mình để đổi cho người thợ săn ấy, lấy chiếc y hoại sắc kiakhoác lên mình. Lúc nầy thì Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc chỉ biết đứng yên lặng chẳng thốt được nên lời. Tiếp đến Thái tử đưa tay nâng lọn tóc lên cao và dùng kiếm báu gọt sạch những muộn phiền qua làn tóc xanh óng ả ấy và trao qua cho Sa Nặc bảo rằng: “Ngươi hãy mang những vật nầy về lại cho Da Du  Đà La“, nhưng Sa Nặc chỉ muốn ở lại đây vì sợ khi về đến kinh thành mà nhà Vua không thấy Thái tử , thì chỉ có chết chứ làm sao có thể thoát khỏi được lưỡi hái của tử thần. Con ngựa Kiền Trắc cũng như vậy, nó vẫn dậm chân tại chỗ lại còn rống lên những tiếng thật là áo não sầu bi, nước mắt cứ chảy đầm đìa như chưa bao giờ có một cuộc chia ly đầy tang thương như vậy.

“Tóc của Mẹ Cha xin trả lại cho Mẹ Cha, người trần thế xin trở về với trần thế“. Đây có thể là lời than của Thái tử, mà cũng có thể là một sự quyết định cuối cùng không nhân nhượng với bản thân của mình, để chứng minh cho Sa Nặc thấy rằng Ngài đã quyết chí xuất gia tầm đạo, không ai có thể cản ngăn nghị lực của Ngài được cả. Chỉ có Sa Nặc là lo lắng vô cùng, bởi lẽ bây giờ trở lại hoàng cung chỉ một mình với con ngựa Kiền Trắc, còn bóng hình Thái tử biệt tăm thì chắc gì Vua Tịnh Phạn đã để yên cho. Cuối cùng Thái tử bảo Sa Nặc rằng: “Ngươi hãy về tâu lại với Phụ Hoàng ta rằng, nếu ta không thành đạo, ta sẽ chẳng trở lại hoàng cung. Đây là lời quyết đoán và ta sẽ trở về khi ta đã chứng được đạo quả. Ngươi sẽkhông bị phạt tội, mà trái lại khi có tin của ta, Phụ Vương cũng như Mẫu Hậu và Da Du Đà La sẽ vui mừng vì biết được tin tức về ta. Do vậy Ngươi sẽ không hề gì“.

Khi tiếng hí của ngựa Kiền Trắc vang rền nơi cổng thành thì lúc ấy mọi người ai nấy trong cung cũngmừng vui, vì ngóng tin Thái tử đã lâu ngày mà không có kết quả nào cả. Chính hôm nay đây Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc sẽ mang lại cho triều đình một tin vui, nhưng ngược lại khi Da Du Đà La nhác trôngtrên lưng ngựa không có bóng hình của Thái tử thìnàng đã trách rằng: “Tại sao lúc Thái tử ra đi, ngươi không hí to lên như lần nầy để ta biết mà thức dậy và có thể cản được bước chân của Thái tử muốn xuất gia tầm đạo. Bây giờ ngươi về đây một mình mà còn hí rống lớn tiếng làm gì nữa“. Con ngựa ngoan như hiểu ý nàng, nhưng nàng đâu có ngờ đó là do trợ lực cũng như sức mạnh của Chư Thiên đã giúp cho Thái tử vượt thành, chứ Sa Nặc và ngựa quý nầy không cómột khả năng ngoại hạng nào cả. Đến phiên Sa Nặc cũng bị Da Du Đà La nặng lời rằng: “Chính ngươi là nô bộc, là bạn quý của cung thành nầy và của cả Thái tử nữa, nhưng tại sao ngươi không cản ngăn Thái tử ra đi mà lại còn đưa Thái tử vào trong rừng sâu nước độc, sống thui thủi chỉ có một mình; còn ở cung son nầy vẫn luôn vắng bóng một hình hài mà ta luôn trông đợi. Rõ là ngươi đã chẳng làm nên tích sự gì cả. Hãy mau cút đi, đừng để cho ta thấy mặt của ngươi nữa“. Sau những lời trách móc nặng lời như thế, nàng dường như đã hả dạ nên đã ngất đi lúc nào không hay biết. Sa Nặc tiến đếnbên Đức Vua và Di Mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề tâu lại nguyên văn những gì như Thái tử Tất Đạt Đa đã căn dặn. Đức Vua nghe xong, không buồn, không vui, còn Di Mẫu thì ngửa mặt lên trời than thân trách phận. Cánh cửa Hoàng Cung từ từ khép lại với bao nỗi nhớ mong thương tưởng của Vua Cha cũng như của cả một Hoàng Tộc; chỉ riêng Mangala và Đề Bà Đạt Đa có cái cớ để vui, vì tại đây không còn bóng dáng hiềnđức của Thái tử Tất Đạt Đa nữa thì Mẹ Con Đề Bà Đạt Đa sẽ được thuận lợi ở một ý nghĩa thấp hèn nào đó. Mục đích chính của Mangala và Đề Bà Đạt Đa làcướp ngôi của dòng họ Thích. Mặc dù Tịnh Phạn Vương vẫn còn tại vị, nhưng nay Thái tử Tất Đạt Đa không hiện hữu tại cung đình nên ngôi kế vị vẫn còn trống, do vậy sự rời bỏ cung vua của Thái tử chính là cái đích mà Mẹ con của Đề Bà Đạt Đa luôn mong mỏi từ lâu rồi.

Nỗi buồn vì sự rời bỏ của Thái tử không phải chỉ có trong Hoàng Tộc, của Sa Nặc hay ngựa Kiền Trắc, mà là của cả một cung thành Ca Tỳ La Vệ, trên từ vua quan, dưới cho đến thứ dân ở đâu cũng nghe tiếng nức nở khóc than, tất cả cũng chỉ mong có được ngày trở về của Thái tử. Nhưng có một người có lẽ chắc vui đó là Thái tử Tất Đạt Đa. Tuy Ngài chưa chứng thành đạo quả lúc ban đầu, nhưng Ngài đã tự chiến thắng với chính mình. Cho nên đã có lần Ngài thốt lên rằng: “Chiến thắng muôn quân, không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất“. Người muốn đi tìm cái vĩ đại của chân lý, chắc hẳn một điều là phải từ bỏ những sự nhỏ nhặt muộn phiền. Nếu những thứ phiền não căn bản ấy không đoạn tận được thì làm sao có thểchiến thắng tất cả những ma quân ngoại cảnh ở bên trong cũng như bên ngoài, để trở thành  bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác về sau nầy.

Một vị Thái tử đã bỏ ngôi báu vào rừng sâuđể tu hành, lần đầu tiên khi gặp Vua Tần Bà Sa La, sau khi hỏi chuyện, nhà vua biết rằng đây là Thái tử sắp được phong vương của xứ Ca Tỳ La Vệ, nên  nhà Vua đã bảo rằng: “Thôi! Thái tử hãy ở lại đây với ta, ta sẽ nhường lại nửa ngai vàng và nửa giang sơn nầy để Thái tử cai trị và làm thực ấp“. Thái tử trả lời rằng: “Xin cảm ơn Thánh Thượng và xin Ngài hãy hiểu cho rằng, tại cung thành Ca Tỳ La Vệ kia có cả một giang sơn để kế nghiệp mà tôi còn từ bỏ để ra đi tìm chân lý, thì vui gì ở lại xứ Ma Kiệt Đà nầy đểđón nhận chỉ nửa ngai vàng“. Vua Tần Bà Sa La khi nghe biết sự quyết tâm của Thái tử như vậy nên mới tâu rằng: “Thế thì sau khi thành đạo, Ngài hãy trở lại xứ Ma Kiệt Đà nầy trước, trẩm sẽ hầu hạ và cung phụng Ngài cho đến cuối đời“, Thái tử đã đồng ý. Và sau khi Ngài thành đạo dưới cội Bồ Đề, trên đường về thăm Vua cha Tịnh Phạn, Đức Phật đã ghé thăm Vua Tần Bà Sa La trước. Đó là sự giữ lời hứa của một bậc đã chứng thành ngôi vị Chánh Đẳng Chánh Giác với một đấng quân vương.

Khi vua Trần Thái Tông lên ngôi vào năm 1226, qua những âm mưu của quân sư Trần Thủ Độ quá độc ác đối với triều nhà Lý, nên Ông đã từ bỏ ngôi vua vào núi Yên Tử để muốn xuất gia và Ông cũng đã tuyên bố một cách thẳng thừng với mọi người là:“Trẫm xem ngai vàng như đôi dép bỏ“. Quả thật chỉ có những con người thoát tục mới dám thốt lên những lời nói như thế, còn đa phần trong chúng ta córất nhiều sự tham sống, sợ chết và không bao giờ dám hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để đổi lấy hạnh phúc cho nhân dân. Cuối cùng rồi chỉ những người có ý chí kiên cường mới thực hiện được những giá trị miên viễn để lại cho đời sau, mà nghìn năm gương kim cổ vẫn còn ghi. Trong chúng ta nếu không có những bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời như vậy thì sử xanh sẽ không có dịp ghi lại tánhdanh của những anh hùng liệt nữ.

Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần. Đây cũng là một bài học quý giá cho ngàn sau. Phàm: “Ai có ý chí, kẻ ấy sẽ thành công“.

 

Viết xong vào lúc 17 giờ chiều ngày 7 tháng 3 năm 2018 trên chuyến tàu tốc hành từ Hannover chạy về hướng Munchen.

Những hình ảnh xa xưa của Hòa Thượng Thích Như Điển, 
Chân thành cảm ơn ĐĐ Thích Hạnh Lý đã sưu tập và gởi cho đầy đủ những hình ảnh quý báu này:


HT Thich Nhu Dien 035HT Thich Nhu Dien 036HT Thich Nhu Dien 037HT Thich Nhu Dien 038HT Thich Nhu Dien 039HT Thich Nhu Dien 040HT Thich Nhu Dien 041HT Thich Nhu Dien 042HT Thich Nhu Dien 043HT Thich Nhu Dien 044HT Thich Nhu Dien 045HT Thich Nhu Dien 046HT Thich Nhu Dien 047HT Thich Nhu Dien 048HT Thich Nhu Dien 049HT Thich Nhu Dien 050HT Thich Nhu Dien 051HT Thich Nhu Dien 052HT Thich Nhu Dien 053HT Thich Nhu Dien 054HT Thich Nhu Dien 055HT Thich Nhu Dien 056HT Thich Nhu Dien 057HT Thich Nhu Dien 058HT Thich Nhu Dien 059HT Thich Nhu Dien 060HT Thich Nhu Dien 061HT Thich Nhu Dien 062HT Thich Nhu Dien 063HT Thich Nhu Dien 064HT Thich Nhu Dien 065HT Thich Nhu Dien 066HT Thich Nhu Dien 067HT Thich Nhu Dien 068HT Thich Nhu Dien 069HT Thich Nhu Dien 070HT Thich Nhu Dien 071HT Thich Nhu Dien 072HT Thich Nhu Dien 073HT Thich Nhu Dien 074HT Thich Nhu Dien 075HT Thich Nhu Dien 076HT Thich Nhu Dien 077HT Thich Nhu Dien 078HT Thich Nhu Dien 079HT Thich Nhu Dien 080HT Thich Nhu Dien 081HT Thich Nhu Dien 082HT Thich Nhu Dien 083HT Thich Nhu Dien 084HT Thich Nhu Dien 085HT Thich Nhu Dien 086HT Thich Nhu Dien 087HT Thich Nhu Dien 088HT Thich Nhu Dien 089HT Thich Nhu Dien 090HT Thich Nhu Dien 091HT Thich Nhu Dien 092HT Thich Nhu Dien 093HT Thich Nhu Dien 094HT Thich Nhu Dien 095HT Thich Nhu Dien 096HT Thich Nhu Dien 097HT Thich Nhu Dien 098HT Thich Nhu Dien 099HT Thich Nhu Dien 100HT Thich Nhu Dien 101HT Thich Nhu Dien 102HT Thich Nhu Dien 103

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18441)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15895)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29696)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25378)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21530)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17744)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20731)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26227)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33189)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51951)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22760)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23325)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39502)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21708)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22286)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6762)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22626)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69642)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43867)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22950)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34872)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43954)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42773)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44268)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24793)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24264)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39068)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39058)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17167)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17912)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19173)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35548)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24112)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19501)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20322)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18231)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18893)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18867)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17407)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19228)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30669)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19113)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20418)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19441)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19668)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29660)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17759)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19317)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19788)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58628)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24333)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23399)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39654)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26604)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40635)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22799)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22816)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21500)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18531)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22509)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21009)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19127)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20844)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20245)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30446)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20103)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17373)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16505)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16775)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14884)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14770)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22751)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15967)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16127)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15172)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25940)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17088)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15683)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19660)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17586)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14601)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14648)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19033)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15025)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32920)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17351)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19015)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21698)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22856)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16538)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16379)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16368)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22834)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26250)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12594)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29362)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27560)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25764)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18370)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15482)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant