Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Giảng Thứ Tư

03 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10494)
Bài Giảng Thứ Tư


Life, Death and After Death
S
NG, CHT và SAU KHI CHT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành tại Hoa Kỳ 2009

BÀI GIẢNG THỨ TƯ

Ngày hôm qua chúng ta đã thảo luận với nhau về những ảo ảnh xuất hiện trong lúc chết. Theo quan niệm của Phật giáo thì tất cả những lầm lạc, ảo ảnhô nhiễm này đều bắt nguồn từ ba nguyên nhân, từ tam độc: tham, sân và si.

Tất cả những ảo ảnh đều từ ba độc tố này mà ra. Nếu chúng ta không có ba độc tố này thì chúng ta sẽ không có bất cứ một vấn đề gì trong lúc chết. Nếu được như vậy thì chết sẽ là một sự bình an, một đại lạc. Ðó là điều quan trọng. Chúng tôi diễn tả sự chết là sự nhận chìm, là sự thẩm thấu của tứ đại, khi chúng chìm đi chúng để lại những ảo ảnh. Chỉ có những người nào bị tam độc hành hạ mới có những sự mất cân bằng khi tứ đại ra đi. Tứ đại chìm đi có nghĩa là tứ đại không còn cân bằng. Trong kinh thư của Tây Tạng, danh từ đất, nước và lửa “chìm”, nhưng thực ra chúng không chìm vào nhau. Theo danh từ khoa học, chúng bị suy đồi hay bị mất cân bằng. Như vậy, khi một “đại” biến mất là một ảo ảnh xuất hiện, một “đại” khác tan biến là một ảo ảnh khác xuất hiện.

Nguyên nhân thoái hoá của những năng-lượng-không-cân-bằng trong cơ thể là tam độc. Sách y khoa của người Tây Tạng giải thích rằng lòng ham muốn sản xuất ra “lung.Có nghĩa là khí không còn cân bằng. Một khi lòng tham dấy lên là khí trong người không còn điều hoà, tham làm cho hơi thở trở nên nặng nề khó luân chuyển.

Lòng sân hận ganh ghét sản xuất ra mật đắng. Vô minh sản xuất ra TB (ho lao). Lòng tham lam vô độ sản xuất ra xung khí, nó có ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Lòng thù hận sản xuất ra quá nhiều mật đắng có hại cho hỏa đại. Vô minh sản xuất ra nguyên tố nước. Nếu năng lượng trong người mà hoạt động mạnh quá, hoạt động quá sức, nó sẽ kích động mạnh tứ đại làm cho con người xáo trộn, kết quả là sẽ có nhiều lầm lẫn, lộn xộn xẩy ra. Sự thắng thế của một đại trong tứ đại sẽ tạo nên một sự mất thăng bằng trong cơ thể, nó có thể giết chúng ta. Khí lực (phong đại) trong cơ thể của chúng ta là nguồn sinh khí phải không? Nhưng khi nó không còn cân bằng, sinh khí sẽ trở thành tử khí. Cũng vậy, trái tim của chúng ta, sức ấm của chúng ta, cũng là những nguồn sinh lực, nếu sức ấm bị thất thoát cũng sẽ gây ra rất nhiều phiền phức.

Chúng ta cần nước, phải không? Nhưng nếu có quá nhiều nước, chúng ta cũng bị chết. Vì thế, nếu tứ đại cân bằng với nhau ở trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ có sức khỏe tốt. Nhưng khi một trong tứ đại này mất cân bằng là toàn thể con người bị ảnh hưởng, bị xáo trộn. Ðó là sự thật, sự thật về con người của chúng ta.

Rất nhiều người Tây phương đã đọc cuốn Tử Thư Tây Tạng, trong đó diễn tả rất nhiều cảnh kinh khủng, như có nhiều người đến tay cầm dao búa, nhiều người xông đến để chém giết chúng ta. Họ rất hung dữ, tàn bạo. Ðó chính là lòng ham muốn của chúng ta đã sản xuất ra những hình ảnh kinh khủng này. Tôi tin vào sự kiện này, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta đã tích tụ biết bao nhiêu là âm lực (negativity, năng lượng âm,) biết bao nhiêu là điều không đúng sự thật và biết bao nhiêu lớp mền xấu xa nặng nề từ khi sinh ra đến bây giờ, cộng thêm với những kiếp trước nữa nữa. Phải chăng cuộc đời của chúng ta chỉ để sản xuất ra những sai lầm và u mê?

Một lần tôi được nghe kể, có những danh ca đã bán được rất nhiều đĩa nhạc trên khắp thế giới, nếu chúng ta xếp những đĩa nhạc này chồng lên nhau, có thể nó sẽ cao gấp hai lần núi Hy Mã Lạp Sơn. Giống như vậy, những sản phẩm của chúng ta về chiếc mền nặng nề cũng có thể cao gấp ba, gấp bốn lần dãy Hy Mã Lạp Sơn. Do đó, vì những dấu ấn lầm lẫnchúng ta đã có, đã tích tụ, đã in sâu vào tâm thức của chúng ta từ muôn vàn kiếp nên chúng ta sẽ thấy, sẽ kinh nghiệm được tất cả những thứ này trong tiến trình của sự chết.

Thí dụ trong thế giới Tây phương, mỗi khi chúng ta nghe một người mắc bệnh ung thư thì, “Bị ung thư ư --- hãy đi vào nhà thương!” Chúng ta có thể tưởng tượng được bệnh nhân sẽ như thế nào trong những ngày tháng nằm ở nhà thương không? Tôi nghĩ rằng đây chính là địa ngục. Tôi không cần phải nghe bất cứ lời diễn tả nào về cảnh địa ngục nữa. Mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều sách nói về cảnh địa ngục, đối với tôi, đây là quá đủ để nhìn thấy những đau khổ mà người mắc bệnh ung thư này đang phải chịu. Một sự đau khổ bất thường. Một sự đau đớn hơn bất cứ một sự đau đớn nào, hơn cả một con vật. Quý vị hãy tự cảm lấy, không thể tin nổi. Ðôi khi chúng ta ý thức được, nhưng rồi chúng ta lại không ý thức và tiến trình của sự chết lại lặp lại.

Thật là khủng khiếp, đây chính là kinh nghiệm cảnh địa ngục. Những kinh nghiệm này cũng giống y hệt ở thân trung ấm. Một hình ảnh hung dữ xuất hiện. Chính là tử thần. Nó muốn nuốt tươi chúng ta. Ðây chính là con ma đói của chúng ta.

Năm 1978 tôi đến San Francisco để thăm một số người bị bệnh ung thư. Sau khi thăm họ, tôi không ngủ được, những hình ảnh ấy quá đau đớn cho tôi. Giống như xem cảnh địa ngục. Tôi không thể ngủ được. 

Ðiều quan trọng là hãy cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Mỗi một ngày nên cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Hãy giữ chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng trong sạch, đừng tạo thêm ô nhiễm qua thân khẩu và ý của chúng ta nữa. Như vậy sẽ không có vấn đề gì xẩy ra cả. Tâm chúng ta cân bằng thì thân thể chúng ta cũng cân bằng, như vậy chúng ta sẽ tránh được bệnh tật.

Khi sự rối loạn, sự lộn xộn xẩy đến trong lúc thiền, hãy coi chúng chỉ là những ảo ảnh không có thật. Cũng như thế, trong tiến trình của sự chết chúng ta coi những hiện tượng xẩy ra đều không có tự tínhkhông thật nên chúng ta sẽ bớt sợ hơn, sẽ vững tin hơn. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chúng ta đặt trên những hiện tượng xẩy ra. Nếu quá sợ hãi, chúng ta sẽ mất hết sự kiểm soát, sự tự chủ. Nếu một hiện tượng hiện rachúng taý chí mạnh để đối diện với chúng thì chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát được hoàn cảnh.

Thí dụ, một người không thể nào chịu đựng nổi một cơn bệnh trầm trọng, một sự nhiễm trùng nặng nề hay không thể nào đương đầu với sự thất bại thảm thiết. Họ không thể nào giữ cho họ được thanh thản, được an tĩnh trước những cơn khủng khoảng này. Nhưng nếu một người chết một cách tự nhiên, không vì cơn bệnh trầm trọng, không vì sự trầm uất thì họ sẽ dễ dàng giữ cho họ được an bình hơn, được sáng suốt trong giờ phút quan trọng này hơn. Chúng ta có thể nhìn được điều này. Nói rõ hơn, cấp độ tự chủ, cấp độ tỉnh thức, cấp độ sợ hãi trong tiến trình của sự chết hoàn toàn tùy thuộc vào sự nặng nhẹ của tham, sân và si.

Chúng ta có thể thắc mắc, làm sao lại tham lam trong lúc chết được. Lòng tham lam đến từ tâm. Ngay cả trong lúc tỉnh, cuộc sống của chúng ta bị dẫn dắt bởi những tư tưởng tham, chiếm hữu, tranh giành, muốn. Trong lúc chết, thân xác của chúng ta thì đóng lại nhưng tư tưởng vẫn tiếp tục đến, vẫn nuối tiếc dĩ vãng, vẫn níu kéo tương lai. Giống như trong lúc mơ. Tư tưởng tham cũng như vậy. Nó rất mạnh, vì thế ngay trong lúc thân xác bắt đầu lạnh, ngay trong lúc thân xác không còn cử động, tam độc cũng vẫn làm việc mãnh liệt ở bên trong.

Hạnh phúc thay những người chết một cách tự nhiên, một cách nhẹ nhàng mà không bị những chiếc mền nặng nề lôi kéo. Phúc đức cho họ là họ còn tỉnh thức, còn tự chủ, còn trong sạch. Do đó, khi tứ đại chìm đi, để lại những ảo ảnh dữ tợn, người chết vẫn tỉnh thức để nhận diện chúng là ảo, là giả, không có thật. Họ không có một ý niệm gì về một tự tính của thủy đại, của hỏa đại...vân vân... vì thế họ còn tự chủ. Rồi từ từ, từ từ từng “đại” chìm đi, thẩm thấu đi, rồi chúng sẽ trở nên trong sáng hơn, trong sáng hơn và hợp nhất hơn giữa vô tự tính và vô nhị-nguyên tính. Rồi chúng sẽ từ từ được dẫn đến trạng thái rỗng lặng như-như, ánh sáng trong suốt. Trạng thái này sẽ hoàn toàn giúp đỡ chứ không gây một trở ngại nào. Trạng thái này sẽ giúp người chết hoà nhập trong sự thật, trong nhất thể. Vì thế, có điều lợi và cũng có điều bất lợi.

Chúng ta không nên quá lo lắngsợ hãi chết sẽ khó khăn, sẽ tái sinhsúc vật, beo, cọp, lừa, khỉ hay vào ba cõi thấp nhất. Tôi nói rằng chúng ta không nên sợ hãi lo lắng bởi vì chúng talòng từ bi, chúng ta nên phát triển lòng từ bi. Người nào có lòng từ bi với tất cả chúng sinh tại lúc chết thì sẽ không bao giờ sợ hãi bất cứ một cõi nào cả. Với tình thương bao la thì không thể nào vào ba cõi thấp được.

Bây giờ chúng ta lại bắt đầu thiền. Lần trước chúng ta đã thanh tẩy thân xác, thanh tẩy nghiệp của thân. Bây giờ chúng ta thanh tẩy khẩu, lời nói, ngôn từ của chúng ta, thanh tẩy nghiệp của miệng lưỡi. Hãy nghĩ chủng tử đỏ AH tại luân xa cổ họng. Những tia sáng năng lượng có mầu đỏ phát ra từ chủng tử AH. Quán tưởng chủng tử đỏ AH là những lời nói thanh khiết của chư Phật và của chư Bồ tát.

Thanh tẩy có nghĩa là thanh tịnh tâm không được kiểm soát, tâm không tỉnh thức và những lời nói phát ra từ miệng có liên hệ hoạt động đến những người khác, vật khác, sự kiện khác.... Lời nói tiêu cực, lời nói xấu sẽ làm người khác đau khổ vì sự không thành thật, vì vu cáo hay vì phỉ báng. Tâm trong sáng, lời nói thành thật, lời nói được kiểm soátphương cách thanh tẩy ngôn ngữ không trong sáng và không được kiểm soát.

Vậy hãy quán tưởng chủng tử đỏ AH. Mầu đỏ AH này giống như mầu đỏ của mặt trời lúc hoàng hôn. Hãy quán tưởng những tia sáng mầu đỏ AH tại luân xa ở cổ họng của chúng ta. Toàn thân thể chúng ta được tràn ngập, được bao bọc bởi những tia sáng năng lượng thanh tịnh này. Trong cùng lúc đó hãy tụng âm AH nhiều lần, và cũng như lần trước, hãy chỉ là trong trạng thái tỉnh thức của chính tâm mình. Hãy chỉ đang là! Hãy an trú trong đó mà không khởi lên bất cứ ý tưởng nào, không diễn dịch, không đối thoại. Hãy chỉ là như vậy, hãy chỉ là chính sự tỉnh thức.

 ( Lặp lại AH )

Hãy thẩm thấu kinh nghiệm vô nhị-nguyên (bất nhị,) vô tự tính của bản ngã, vô, không, zero, không gian rỗng lặng như sự thật, như thực thể, trống rỗng, lặng thinh. Nguồn năng lượng vô biên này đang thấm nhập vào chúng ta.

Một sự thẩm thấu mạnh mẽ. Kinh nghiệm này thực tế hơn những cảm giác mơ hồ từ những giác quan của chúng ta. Nếu có một tư tưởng không được kiểm soát đến quấy nhiễu, như ở trong thân trung ấm (bardo), hãy coi như không phải chỉ xẩy ra cho riêng anh mà nó xẩy ra cho tất cả mọi chúng sinh, tất cả mọi chúng sinh đều có trạng thái này. Hãy phát triển tâm bình đẳng và lòng từ bi, lòng yêu thương đến tất cả muôn loài. Hãy dành tình yêu thương cho tất cả muôn loài.

Tâm không tỉnh thức, tâm rối loạn cũng là nguồn phát ra năng lực yêu thương. Khi lòng yêu thương dâng trào, hãy hướng tất cả những năng lực tình yêu này vào tâm thức của chúng ta.

Vậy, có hai vấn đề: hãy đặt sự tỉnh thức vào tâm của chính chúng ta hay khi có sự rối loạn, sự bất an xẩy ra, hãy chú ý hướng năng lực tình yêu vào tâm thức của chính chúng ta. Hãy luân phiên thay đổi hai sự kiện này.

Kế tiếp, năng lực tình yêu của chúng ta sẽ thị hiện trong kinh mạch trung ương (shushuma) tại luân xa trái tim của chúng ta như là một vầng trăng sáng tròn đầy. Hãy quán tưởng tại trái tim, trên một vầng trăng, có những tia sáng mầu xanh (blue) của chủng tử HUNG. Ðây là năng lượng trí tuệ bất nhị của chư Phật và chư Bồ Tát. Trái tim của chúng ta hoàn toàn trong sạch, an tịnh, được mở ra bởi những tia sáng của vầng trăng và chủng tử HUNG. Những tia sáng xanh vô tận đang phát ra từ HUNG. Tất cả những tư tưởng chật hẹp, nông cạn đều phải tan biến đi. Tâm bấn loạn, tâm không an tịnh đang từ từ chuyển hóa, đang từ từ tan biến. Tâm chiếm hữu, tâm bám chấp đang từ từ tan biến.

Từ chủng tử HUNG và từ vầng trăng có những tia sáng đang dần dần lan toả ra khắp thân thể chúng ta. Thân thể tràn ngập sự an lạc. Tâm nhị nguyên đang được tràn ngập bởi những làn ánh sáng xanh vô tận.

Trong lúc này, hãy tụng âm HUNG khoảng hai, ba phút. Sau hai phút này, hãy cảm nhận những làn sáng xanh, như tâm thức của chúng ta, đang bao trùm khắp vũ trụ. Sự tỉnh thức của chúng ta đang bao trùm khắp vũ trụ. Hãy cảm nhận và hãy là, mà không có một chút diễn dịch hay suy đoán nào.

 ( Lặp lại HUNG )

Vậy, chúng ta cần có hai kinh nghiệm: trí tuệphương pháp. Kinh nghiệm trí tuệ là sự tỉnh thức của thực tại tâm thức của chúng ta. Ðây là con đường trí tuệ. Phương pháp là mỗi khi chúng ta rơi vào trạng thái mù mờ, mất kiểm soát: chính kinh nghiệm bấn loạn này là căn nguyên tạo ra lòng từ bi và khi sự rối loạn ra đi hãy an trú ngay vào trí tuệ. Nhắc lại hai sự việc là: khi không có vấn đề, hãy chú ý vào trí tuệ; khi bị rối loạn, hãy dùng phương pháp, phát triển lòng từ bi. Như thế, chúng ta có hai công việc phải làm mỗi ngày.

 ( Trở lại thiền định

Hãy thường tụng niệm câu mật chú OM AH HUNG. Khi không tiện để tụng dài (ngân dài) câu mật chú này, hãy đọc đơn giản OM AH HUNG. Ba âm này cũng đại diện cho cả câu mật chú. Ðặc biệt khi tụng âm OM, âm này sẽ đánh thức tất cả mọi hiện tượng, tất cả mọi cõi giới trong vũ trụ; sự tỉnh thức được kích thích, OM sẽ đánh thức tâm thức của chúng ta.

Tôi được nghe nói các nhà khoa học đã có kinh nghiệm về âm thanh khôi phục, bồi dưỡng bộ óc của chúng ta, mặc dầu họ chưa thấu hiểu âm thanh làm việc như thế nào. Họ đã và đang phân tích, nghiên cứu sự kiện âm thanhảnh hưởng đến việc khôi phục bộ óc. Họ đã khám phá ra mật chútác dụng làm thức dậy sự sinh hoạt của bộ óc, thay vì để chúng im lìm say ngủ. Khi chúng ta tụng “Ommmmmmmm,” chúng ta cảm nhận được toàn thể hệ thống thần kinh của chúng ta được kích thích. Vì thế, thiền địnhgiá trị đánh thức thay vì ngủ mê --- thức dậy trong tri giác bao la của toàn diện thực tại chứ không phải thức dậy trong u mê, ảo mộng của nhị-nguyên. Mật chú chạm vào thực thể bao la rộng lớn. Ðó là lý do mật chú thường được sử dụng.

Tôi nghĩ rằng tôi nên chấm dứt sự trình bày của tôi ở đây. Ðiều vô cùng quan trọng là bằng mọi cách, chúng ta phải thực sự đi vào trạng thái trong sáng, không phải chỉ dùng trí thông minh, lý luận mà thôi. Với những kinh nghiệm trong thiền định, chúng ta có thể thay thế, chúng ta có thể cấy sự tỉnh thức của chúng ta vào trong tâm thức của chúng ta thay vì để nó bị rối loạn hoặc ù lì. Ðược như vậy là đủ tốt rồi. Cấy sự tỉnh thức vào trong tâm thứcphương pháp của Phật giáo, như là thiết lập một hỏa tiễn nguyên tử. Hướng sự tỉnh thức vào trong tâm thức của chúng ta cũng như thiết lập một giàn hỏa tiễn nguyên tử để phóng vào không gian bất nhị. Chúng ta hãy tự “thiết lập,” đừng bắt chước theo cách này hay cách kia. Chỉ đặc biệt chú ý vào sự tỉnh thức hay vào chính tâm thức của chúng ta, hệ thống hỏa tiễn nguyên tử nội tại sẽ được kích hỏa, hay sẽ được sửa chữa, để phóng vào không gian bất nhị.

Nói một cách khác, nếu chúng ta thành thật quyết tâm thiền định theo phương pháp này, tôi bảo đảm với quý vị, nếu cần tôi ký giấy bảo đảm cũng được, quý vị sẽ có kinh nghiệm về giá trị của vô nhị-nguyên. Ðể giải thích thêm một lần nữa: khi chúng ta chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, được không tính, thì ngay tại lúc đó, hãy có một sự tỉnh thức mãnh liệt, một sự chú ý mãnh liệt, và hãy có một sự lãnh hội sâu xa về không tính. Ðó là sự thật. Ðó là thực thể. Ðừng “hỏi và nêu nhiều ý kiến,” đừng thắc mắc “cái này, cái kia,” hãy xây dựng, hãy phát triển một sự mãnh liệt mạnh bạo ở bên trong. Tôi không biết phải diễn tả qua ngôn ngữ như thế nào. Nhưng bằng bất cứ một cách nào đó ở tận bên trong, sức mạnh nội tâm ở sâu thẳm bên trong sẽ thấu hiểu được, sẽ lãnh hội được sự tỉnh thức của tâm là một thực tại, là chính thực thể, sự tỉnh thức chính là thực tại.

Tại sao lại phải đặc biệt chú ý đến việc cần phải có một sức mạnh lãnh hội này? Thông thường chúng ta nghĩ rằng tất cả những ảo giácsự thật rồi bám víu vào chúng, vồ chụp chúng. Nhưng khi chúng ta kinh nghiệm được, chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, chúng ta liền hiểu ngay rằng đó cũng chỉ là những thói quen của chúng ta, chính những thói quen này làm chúng ta tin tưởng vào những ảo giácsự thật, là vững vàng. Vì thế những kinh nghiệm nội tâm là một cái gì đó không có thực, đó chỉ là sự đảo ngược của tư tưởng. Quý vị đang nghe tôi đấy chứ? Ðó là lý do tại sao cần phảisức mạnh, cần phải mãnh liệt!

Tôi nghĩ rằng quá đủ rồi. Tôi đã không giải thích nhiều về thân trung ấm (bardo), vì phải dùng quá nhiều trí thông minh và rất khó giải thích về làm thế nào để một người có thể tái sinh trở lại; điều này cần rất nhiều giờ, rất nhiều chi tiết. Tuy nhiên điều quan trọng vẫn là kinh nghiệm, sự chứng nghiệm. Vì thế, chúng ta mới biết rằng chúng ta có khả năng đi vào cõi trung gian bằng kinh nghiệm thay vì bằng những lời nói “như vậy, như vậy, thân trung ấm, như vậy, như vậy, bardo như vậy, như vậy, tái sinh như vậy, như vậy...” Qua kinh nghiệm của quý vị, quý vị sẽ tự khám phá ra.

Bây giờ, quý vị có thể hỏi ba câu hỏi ngắn. Chắc chắn là tôi đã chọc tức, đã làm mất lòng một số quý vị ở đây. Vì thế, những điều gì tôi nói không có lý ở đây, những điều gì tôi đã làm cho quý vị hoang mang, nghi ngờ, xin hãy tự nhiên đặt câu hỏi.

Thính giả: Chúng ta có thể giúp người đang chết như thế nào?

Lạt ma: Tùy thuộc vào căn bản hiểu biết, tôn giáo, kiến thức... của người đang chết. Nhưng dù họ có bất cứ kiến thức nào, theo bất cứ tôn giáo nào, việc quan trọng là chúng ta cần đánh thức họ, kích thích họ tỉnh thức. Ðiều vô cùng quan trọng là chúng ta không nên chọc tức họ. Khi họ sẵn sàng ra đi, hãy để họ một mình. Ðừng cố gắng nói gì cả, như “dùng thuốc đi” hay “hãy ký vào đây”. Một điều vô cùng trở ngại cho người chết là sự khóc lóc, than vãn, như “Trời ơi, anh sắp chết rồi.”

Thí dụ, tôi là ông bố sắp chết của anh, anh đến bên tôi, anh khóc: “Bố ơi, nếu bố chết, con sống làm sao đây?” Như vậy tôi bị quấy rầy quá làm sao tôi có thể tập trung vào tình trạng của tôi trong lúc này. Do đó, hãy để cho người ta ra đi, được không? Ðừng gây xúc động quá, đừng gây tức bực quá, đừng quấy rầy quá; hãy để họ được bình an, yên tĩnh. Ðó là điều vô cùng quan trọng. Càng cho họ niềm tự tin càng tốt. Hãy cố gắng khuyên họ, như : “Khi anh chết, anh sẽ hạnh phúc lắm, đừng lo lắng gì cả, tất cả mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Ðây là lúc tốt nhất để ra đi. Chúc anh lên đường bình an.” Bất cứ một cái gì kích thích lòng ham muốn, lòng bám víu, lòng ganh ghét, lòng thù hận, lòng luyến tiếc đều không tốt, đều tai hại cho họ. Sự yên tĩnh, một bầu không khí an lànhtốt đẹp nhất.

Nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, hãy nói với họ, “Anh hãy yên tâm, Chúa sẽ săn sóc anh, anh là người có diễm phúc, anh sẽ được vào thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa.” Một hành động tích cực trong lúc này là sự cần thiết, bởi vì mặc dù trong lúc này anh ta không là người sùng đạo lắm nhưng ở sâu thẳm trong tâm hồn anh ta, anh ta vẫn cần một cái gì để bám vào, cần một cơ hội để qui thuận. Vậy, khi chúng ta nói, “Jesus” hay “Chúa,” vô thức của anh ta sẽ bắt được. Ðây là một việc làm tốt, tôi tin rằng chúng ta có thể giúp họ như vậy.

Có rất nhiều người Tây phương nói rằng họ chẳng có gì để làm với tôn giáo tại địa phương họ; nhưng tôi nhận thấy rằng tôn giáo tại địa phương của họ rất có ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong đời sống thường ngày của họ và ngay cả tinh thần của họ. Trong vô thức họ là người Thiên Chúa giáo, mặc dầu họ vẫn tự xưng “Tôi không muốn theo đạo Chúa.” Vì thế, khi vào giờ phút nguy kịch, họ không có gì để bám vào, nếu chúng ta nói, “Chúa” hay “Jesus” thì có một cái gì đó bắt được họ, chạm đến họ. Dĩ nhiên, nếu họ là Phật tử, chúng ta có thể nói, “Ðức Phật” hay “Buddha” !

Thính giả: Chúng ta có thể làm cái gì cho một người đang trên giường chết mà nói, “Tôi sẽ vào địa ngục”?

Lạt ma: Ðúng, đó là sự thật. Thỉnh thoảng họ có thể nhìn thấy họ đang trên đường đi vào địa ngục, nên họ kêu lên, “Tôi thấy tôi đang đi vào địa ngục.” Tôi nghĩ, với những người này rất khó giúp họ bằng sự thông minh của chúng ta; chỉ còn sự hy vọng. Có thể giúp họ bằng những viên thuốc an thần để cho họ an tĩnh lại thay vì tăng thêm sự lầm lẫn, sự xáo trộn, bởi vì năng lượng của họ quá nhiều. Chỉ có cách đó mới có thể giúp họ từ từ. Ngoài ra tôi nghĩ rằng rất khó.

Thính giả: Trong Phật giáo Thiền tông, chúng ta có những công án để giúp chứng nghiệm vô tự tính. Thí dụ, có công án như “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?” Công án đó giúp chúng ta được những gì trong sự chứng nghiệm không tính? Tiếng vỗ của một bàn tay --- nó liên hệ đến không tính như thế nào?

Lạt ma: Quý vị có nhớ một lần tôi nói với quý vị, một người chấp vợ ông ta như là một thực thể tự có và một người đàn bà chấp bạn trai của bà ta như một thực thể tự có? Thí dụ này cũng giống như vậy. Cố gắng đến gần sự thật hơn là cứ bám vào cái này hay cái kia. Quý vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Thực ra đây là một ý niệm cứng ngắc, một tư tưởng kỳ quái. Chính phủ Thụy sĩ tin đồng tiền Thụy sĩ như là một thực hữu, rồi tin tưởng rằng đồng tiền Thụy sĩ thực có này sẽ làm cho xã hội Thụy sĩ được hoàn hảo. Nó cũng giống như vậy. Tất cả đều là vọng tưởng, tất cả đều là tưởng tượng --- cái gì chúng ta giữ là thật, là tự hữu --- không chạm vào sự thật được! Chúng ta cần phải đụng vào đây (hai bàn tay chạm vào nhau) mới tạo ra âm thanh (tiếng vỗ tay) được. Như vậy chúng ta cố gắng chạm vào sự thật và hãy khám phá ra rằng những ý niệm của chúng ta, những ảo tưởng của chúng ta và những ý niệm sẵn có của chúng ta cũng đang cố gắng đi đến sự thật, đang cố gắng tạo ra âm thanh --- nhưng nó không tạo ra được âm thanh! Vì thế, cái không (zero) của ảo tưởng tự-có cũng sẽ biến mất. Ðó là phương pháp để chứng nghiệm không tính.

Âm OM có liên hệ đến các hiện tượng, âm này tác động toàn thể hệ thần kinh của chúng ta. Âm OM không thể tự nó mà có được; cũng như tiếng vỗ tay không tự nó mà có được. Tiếng vỗ tay tùy thuộc vào bàn tay, tùy thuộc vào không gian, tùy thuộc vào năng lượng (sức mạnh của hai tay) và rồi hai tay đụng vào nhau như thế này. Mỗi một âm thanh là một sự liên hệ tùy thuộc, hoàn toàn tùy thuộc vào, hoàn toànduyên khởi. Rồi như thế này ..(hai tay vỗ vào nhau)... tạo ra âm thanh. Âm thanh tự nó không có được, nó không có tự tính. Trong Phật giáo chúng tôi thường nói về vô nhị-nguyên (bất nhị), vô tự tính. Thí dụ, khi quý vị vào trong một hang động, quý vị tạo ra một âm “Ahhhhhh,” hang động dội lại “Ahhhhhh”. Quý vị có quen với hiện tượng này không?

Âm thanh là một thí dụ rất dễ hiểu về lý duyên khởi. Hiểu được lý duyên khởi thì không còn có một ý niệm về cái tôi thường hằng vững chắc nữa. Nếu chúng ta cứ chấp âm thanh này (vỗ tay) là tự có (của một bàn tay) thì nó sẽ không còn liên hệ đến những cái khác được. Hãy cố gắng hiểu cái hợp lý theo khoa học mà Phật giáo giải thích. Nếu tiếng vỗ tay mà tự có được (từ một bàn tay) thì không cần hai bàn tay này va chạm vào nhau và những hiện tượng cũng không có liên hệvới nhau.

Tôi nghĩ rằng bây giờ chúng ta đã hiểu rõ các hiện tượng liên hệ phụ thuộc vào nhau như thế nào. Sự tụ họp này, dĩ nhiên, cũng không tự nó mà có được. Chúng ta gặp nhau ở đây không phải tự nhiên mà có được. Cám ơn quý vị nhiều lắm. Xin cám ơn những người đã mời tôi đến đây để diễn giải những đề tài này. Họ đã tốn rất nhiều công sức mới tổ chức được như thế. Nguyện tất cả những công việc nặng nhọc, những cố gắng phi thường của quý vị mang lại ơn ích cho muôn loài. Cám ơn quý vị nhiều lắm lắm. Nếu những điều tôi trình bày mà quý vị không được hài lòng, mà gây cho quý vị nhiều thắc mắc, thì tôi vẫn còn trên quả đất này, quý vị cứ viết cho tôi, tôi sẽ trả lời. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những gì tôi đã trình bày, vậy cứ viết cho tôi. Tôi không biến mất ngay bây giờ đâu. Tôi cũng phải làm sạch sẽ những rác rưởi của chính tôi.

Cám ơn quý vị rất nhiều.

[Năm tháng sau, Lạt ma qua đời]

___________________________

* Ghi chú của dịch giả bản Việt ngữ: Mười một tháng sau, Ngài tái sinh.  Xin xem tiểu sử của Lạt maThubten Yeshe ở trang kế.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19531)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18637)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16176)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30015)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25577)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21709)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17887)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20877)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26404)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33436)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52290)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22946)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23469)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39755)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21859)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6910)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22784)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69911)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44129)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23183)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35154)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42985)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44526)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24976)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24436)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39318)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39355)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18107)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19328)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35751)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24302)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19680)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20469)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18378)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19102)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19007)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17553)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19390)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30965)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19270)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20595)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19647)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19851)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29928)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17892)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19474)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19941)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58885)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24465)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23610)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39852)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26781)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40857)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22939)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 23001)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21676)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18700)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22637)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19281)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20994)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20409)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30616)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20243)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17522)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16658)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16929)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14998)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14903)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22941)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16097)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16269)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15325)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26247)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17273)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15903)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19889)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17775)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14768)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19228)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15222)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33151)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17585)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19218)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21903)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23155)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16709)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16588)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16638)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23102)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26516)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12839)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29637)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27852)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26023)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18531)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant