Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10093)
Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

QUỐC LỄ CẦU AN CHÚC THỌ ĐẦU NĂM
TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ
Thích Phước Đạt

 


Kể từ khi đất nước ta bước sang thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn, đến triều đại nhà Lý thì Phật giáo đã tự khẳng định vai trò của mình không chỉ trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng mà còn tham gia tích cực trong việc phục hưng mọi giá trị văn hóa của dân tộc.

Ta thấy, một trong những việc làmý nghĩagiá trị thiết thực đối với dân chúng là tổ chức các lễ hội cầu an mang tính quốc gia vào các dịp đầu năm do Phật giáo tổ chức dưới sự bảo trợ của triều đình. 

Một mặt Nhà nước kết hợp với Phật giáo tổng kết các thành tựu của quốc gia trên mọi lĩnh vực, tuyên dương công đức của cá nhân và tập thể đã đóng góp cho nước nhà, cho dân tộc. 

Mặt khác, Nhà nước cũng muốn phô diễn và thị uy với các sứ giả lân bang biết về sức mạnh của Đại Việt. Qua đó, nhà vua cũng tuyên cáo những chủ trương và đường hướng hoạt động của nước nhà như là lời ước nguyện của dân tộc trước thời khắc trọng điểm của một năm mới. 

Theo sử sách ghi nhận, trong vòng gần 200 năm trị vì, nhà Lý đã tổ chức rất nhiều lễ hội kỳ an đầu năm cho toàn thể dân chúng Đại Việt. Nhưng nổi bật hơn cả, vào thời kỳ vua Lý Nhân Tông, mà chính sử Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược ghi về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu

 

blankCụ thể Đại Việt sử lược 2 tờ 20b8 và 22a4-5 ghi vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng, tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và vào năm Bính Thân (1116) lại ghi “Mùa Xuân tháng Giêng tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng, chế tạo nhà sư bằng gỗ cột vào đánh chuông”.

Còn Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ 20b5 và tờ 24a9-b1 ghi vào năm Canh Tý (1120) “Mùa Xuân, tháng Hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.

Chính sử chỉ ghi như vậy thôi, chẳng có thêm thông tin gì cả. Nhưng may mắn thay, tư liệu đương thời là bài Đại Việt đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi của Thượng thư Nguyễn Công Bật, (Thơ văn Lý Trần, tập 1, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977) thì lại mô tả khá chi tiết về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu để chúng ta nhận định về quy mô tổ chức, tính hoành tráng và ý nghĩa sự kiện trọng đại này trong đời sống văn hóa dân tộc.

Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo, là hệ tư tưởng để thực thi các nhiệm vụ trọng đại mà nhu cầu lịch sử dân tộc đặt ra. 

Thế nên Lý Nhân Tông trong vai trò lãnh tụ tối cao của quốc gia, một Phật tử thuần thành đã đề xuất với Thiền sư Mãn Giác rằng “Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu nước, cứu người, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không chỉ có sức định tuệ, mà cũng có công phò tá”. 

Và như thế, mọi người dân Phật tử Đại Việt không ngừng tu tập giới định tuệ mà còn phải tích cực tham gia đóng góp cho công cuộc tái thiết nước nhà, xây dựng quê hương. Vào thời kỳ này, ta thấy việc xây chùa, dựng tượng, đúc chuông được diễn ra khắp mọi nơi như biểu thị thành quả của đất nước trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế. Lễ kỳ an chúc thọ hàng năm của triều đình trở thành lễ kỳ nguyện cả dân tộc “trấn giữ kinh đô của nhà vua” (trụ tích trấn vương kỳ), là nơi thể hiện khát vọng của cả dân tộc mà sử sách ghi “cầu phúc thọ”.

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh mà Thượng thư Nguyễn Công Bật ghi nhận mục đích của việc xây chùa “để mồng một hàng tháng, để mùa Xuân hàng năm, nhà vua mình ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay, hương hoa bày lễ cầu an, bồn chậu để tắm Phật. Trang sức tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa, tinh cần chẳng trễ, kính phụng nào ngơi. 

Vì vậy mà huyền tạo linh thông đều phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa để cầu phúc thọ”. Rõ ràng việc kỳ an đầu năm, đầu tháng mà nhà vua xuống chiếu tổ chức để thành lệ hàng năm không còn ý nghĩa cho chỉ riêng mình vua và hoàng tộc mà cả dân tộc, của trăm họ muôn dân đang sống trong biên cương lãnh thổ Đại Việt bấy giờ. 

Và ta chẳng ngạc nhiên khi các thư tịch văn bia liên hệ đến việc xây dựng chùa chiền đều xác định rõ quan điểm nhất quán là, việc tạo dựng chùa chiền, tổ chức lễ hội kỳ an là nhằm thiết lập, thực thi ý nguyện xây dựng và phát triển dân tộc Đại Việt trở nên cường thịnh, đạo pháp được trường tồn

Cho nên, trong bài “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký” do Chu Văn Thường viết vào khoảng năm 1100, đã không ngần ngại ghi vào “Nhóm người dựng chùa là để mãi mãi giữ lấy nước nhà” (mộ tu tượng pháp, vĩnh bảo bang gia).

Trong ý nghĩa đó, sự chuẩn bị lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếuchính sử ghi nhận được tổ chức hoành tráng. Nếu không có sự bảo trợ của nhà nước phong kiến thì giới Phật giáo cũng không thể thực thi và hoàn thành được. Một đại lễ kỳ an chúc thọ gắn liền lễ hội đèn Quảng Chiếu 7 ngày đêm, cả hoàng gia và dân chúng Đại Việt được sống thế giới Phật quốc an lành. Tất cả đã nói lên tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân biệt mọi thành phần, tầng lớp khác nhau trong xã hội, cùng nhau hướng nguyện xây dựng cuộc sống thật thanh bình, quốc gia thật vững bền

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh tả như sau: “Dựng đài cao Quảng Chiếu, nhắm sân trước cửa Đoan Môn, trong nêu một cột, ngoài đặt bảy tầng, uốn mình rồng hình cung hiện ra mà đỡ lấy sen vàng, may lồng nhiễu mà che cho lửa nến, giấu máy nhỏ dưới đất, xoay tròn như bánh xe, tỏa ánh sáng giữa trời như mặt trời rực rỡ, lại có thánh báo nghiêm trang rõ ràng. Đền vàng điện báu nhờ thành ý mà dựng nên, đặt ngôi tượng Đức Phật cao vót, dáng vẻ văn thiên, hình thô vẻ lạ.

Lại có hai tòa lầu hoa trong treo chuông vàng, khắc hình nhà sư, mình đắp y phước điền, vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh… Lại có tháp thất bảo rực rỡ bày xếp một hàng, chính giữa đặt một ngọn núi vàng, đặt tượng lành Đa Bảo Như Lai, bảy chân hình xe pháp mấy tầng, mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng, mái ngói lung linh vẻ mây biếc ban chiều. 

Thứ đến là hai tòa Bạch Ngân. Bên trái đặt chân dung A Di Đà, bên phải dựng tượng Đức Diệu Sắc Thân, chiều cao mở ra thế khỏe, vẻ đẹp phô rõ mái cong, long lanh ngỡ tuyết đang tan, rực rỡ át trăng thu vằng vặc. 

Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn. Bên trái đặt từ nhang tướng của Như Lai Quảng Bác Thân, bên phải thờ diệu tướng của Như Lai Ly Bố Úy, gác lớn đã hoàn thành, độ cao lại xây dựng, nóc che ngói quý, vách chạm hình rồng. 

Lại thứ nữa có hai tòa Tượng Xỉ. Bên tả đặt hình Đức Cam Lồ Vương, bên hữu thờ tượng đẹp Đức Bảo Thắng Phật, chất quý gọt mài, cột hiên cao dựng, các cạnh khám ngọc đẹp… 

Lại tả chín tầng trời bằng năm sắc, khắc bốn cột bằng cặp đối treo, hai bên nghìn đèn nhấp nháy, bốn mặt rực rỡ vàng son. Dốc lòng vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày, thỏa lòng mắt của thế gian, già đổi nên trẻ. Ấy là công lao xây dựng thắng duyên của bệ hạ”.

Với cách mô tả như trên, ta thấy lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu thật hoành tráng, nó được thực thi theo mô hình thiết kế được rút ra từ trong các kinh điển nhà Phật mang một giá trị tâm linh, với mục đích nguyện cầu âm siêu dương thái. 

Hay nói cách khác đó là sự kết nối yêu thương của bao thế hệ cha ông và con cháu Đại Việt xưa naynhà sư thường khấn nguyện trong các buổi lễ kỳ an với tâm thành mong muốn “quốc thái dân an”. 

Điểm nhấn của mô hình lễ hội này là ngôi tháp 7 tầng hùng vĩ với sự trang hoàng hết sức cầu kỳ bằng châu ngọc, được thiết kế với các thiết bị đặt ngầm bên dưới để có thể quay chiếc tháp 7 tầng. Điều đáng nói là bên trong ngôi tháp tôn trí tượng Đa Bảo Như Lai trên ngọn núi vàng. Hai bên tòa Bạch Ngân đặt tượng A Di Đà và Đức Diệu Sắc Thân. Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn đặt hai tượng Đức Như Lai Quảng Bác ThânLy Bố Úy. Và cuối cùng là hai tòa Tượng Xỉ thờ Đức Cam Lồ Vương và Bảo Thắng. Bảy vị Như Lai này tuy thuộc hệ Mật giáo, nhưng lại được đề cập tới rất giới hạn như một hệ thống bảy Đức Như Lai

Theo các bản kinh như Du già tập yếu cứu A Nan nghi quỷ, Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi kinh và Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Đà la ni thuộc Đại tạng kinh thì 7 vị Như Lai này có chung một chức năng độ trì được thực thi trong các nghi thức chẩn tế, bạt độ, cúng ngạ quỷ của Phật giáo. Và trong một lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu vui như lễ hội dân tộc nhằm “dốc hết hòa vui của thiên hạ, để đêm trở thành ngày” không thể không có mô hình “thất bảo Như Lai” vừa mang tính hoành tráng vừa mang giá trị tâm linh kết nối yêu thương các loài, các thế hệ với quan điểm đầy chất nhân văn “âm siêu dương thái”. 

Rõ ràng việc thờ tự và đỉnh lễ 7 vị Phật này trong lễ hội kỳ an trọng đại đầu năm như thế này là có lý do của nó. Bản kinh Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà la ni kể rằng có một con quỷ đói hiện ra trước mặt A Nan và báo rằng ba ngày nữa là chết. Trước cái cảnh bi thảm như thế, A Nan đã hỏi ngạ quỷ ấy làm sao thì khỏi chết. Quỷ bảo rằng phải bố thí cho nó. A Nan đến thỉnh cầu Phật và được Ngài chỉ cho nghi thức cúng quỷ đói. Nhờ việc bố thí đó mà A Nan đã không những thoát chết mà còn trường thọ

Đúng như bản kinh chép “Ban thức ăn cho quỷ đói thì liền có thể đầy đủ được vô lượng công đức, giống như công đức cúng dường cho trăm ngàn ức Như Lai không sai khác. Được thọ mạng lâu dài, tăng thêm sức lực và vẻ đẹp, căn lành đầy đủ. Hết thảy A tu la, Dạ xoa, La sát, các ác quỷ thần không dám xâm hại, lại thành tựu được vô lượng công đức thọ mạng”. 

Cho nên, trong một thời khắc quan trọng của ngày đầu năm, hẳn nhiên người ta càng mong muốn được Phật Thánh độ trì cho mình và mọi người được sống lâu trường thọ, sắc thân thêm tươi đẹp. Xem ra từ một nghi thức cúng cho quỷ đói, nó đã được đưa vào trong nghi lễ cầu an, cũng như trong các lễ hội dân tộc, phục vụ cho người còn sống. Tại đây ta dễ dàng hiểu tại sao một lễ hội đèn Quảng Chiếu rực sáng suốt đêm như ánh mặt trời chiếu ban ngày, nhộn nhịp và tưng bừng như thế lại có thêm nghi thức cúng quỷ đói của Mật giáo. Bởi vì có gì hạnh phúc hơn bằng khi con người được Phật độ trì sống lâu, mạnh khỏe và sắc đẹp thêm bội phần. 

Cũng vì lẽ này mà trong tâm thức người Việt Nam kể từ đó, bất cứ sự kỳ nguyện nào, nghi thức cúng cấp nào phục vụ cho người sống đều kèm theo nghi cúng cô hồn để nguyện cầu tăng phước và tăng thọ. 

Hơn nữa, trong xu hướng đất nước phát triển thịnh vượng thì đời sống văn hóa nước Đại Việt càng có nhiều cơ hội để thăng hoa từ văn hóa vật chất cho đến văn hóa tinh thần. Những lễ hội văn hóa dân tộc như lễ cầu an - hội đèn Quảng Chiếu mang âm hưởng màu sắc chủ đạo Phật giáo thường được tổ chức trọng thể dưới sự bảo trợ của chính quyền nhà Lý là một dịp dân chúng nước Đại Việt tiếp xúcthông cảm hòa hợp giữa các thành phần trong xã hội

Bởi vì, dù là ai, hoàng tộc hay bần nông khi vào cửa Phật đều là con nhà Phật cả, nghĩa là con một nước theo nghĩa “đất vua - chùa làng - phong cảnh Bụt”. Trên hết, là sự biểu đạt tinh thần đoàn kết toàn dân, sự yêu thương, độ lượng khoan dung từ triết lý từ bi hỷ xả của đạo Phật được vận dụng trong chính sách chủ trương của Nhà nước.

Do đó, cứ vào dịp lễ hội nào, nhất là lễ kỳ an đầu năm theo thông lệ thì vua đều xuống chiếu phóng thích tha tội chết hoặc tha cho những tội phạm trong nước như Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi. Nó được thực thi bởi những vị vua Phật tử đời Lý, lấy nhân từ làm gốc, đến nỗi sau này sử thần Lê Văn Hưu dưới cái nhìn Nho học mà phê bình khá gay gắt trong Đại Việt sử ký toàn thư về chính sách khoan dung độ lượng nhà Lý: “Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà tha cho người có tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không có việc gì mà cũng tha bổng. Phàm người có tội phạm pháp, có kẻ nặng người nhẹ, năm bậc hình phạt, có trên có dưới, sao lại tha bổng được? Nếu nhất loạt tha cả thì kẻ tiểu nhân may mà được khỏi tội, đó không phải là phúc của người quân tử. Cho nên thời xưa nói về đạo trị nước, tuy nói rằng không thể không xá tội, nhưng cũng cho rằng xá tội là có hại. Tha lỗi thì được, tha tội thì không được. Kinh Dịch nói ‘Tha lỗi, giảm tội’. Kinh Thư nói ‘Lầm lỗi thì tha cho, cố phạm thì trị tội’. Thế là phải”. 

Chưa dừng ở đó, lễ hội kỳ an -đèn Quảng Chiếu mà sử sách và văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi nhận là một dịp không chỉ dân ta vui vẻ mừng năm mới đến mà còn là dịp để biểu dương sức mạnh cả dân tộc đối với các nước lân bang. Điều đó chứng tỏ Phật giáo không chỉ tham gia vai trò cố vấn chính trị mà còn có tham gia phò tá đóng góp công sức trên các lĩnh vực khác của đời sống dân chúng Đại Việt. 

Ta thấy chính sử ghi có 4 lần vua Lý Nhân Tông tổ chức lễ hội, trong đó có một lần xuống chiếu mời sứ thần Chiêm Thành tham dự. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh diễn tả lễ hội Quảng Chiếu cực kỳ công phu để lại dấu ấn lớn trong lòng dân Đại Việt. Nó như biểu dương sức mạnh cả dân tộc đang vươn hình hài lớn dậy để bước sang thời kỳ hoàng kim, thắp sáng hàng nghìn ngọn đèn như tỏ ý kinh Thăng Long từ đây chấm dứt đêm dài thời trung cổ. Sự thật lễ hội kỳ an - đèn Quảng Chiếu đã minh chứng tinh thần sức sống Đại Việt “Khuynh thiên hạ chi ung hòa, dạ vi trú thưởng” (dốc lòng hòa vui thiên hạ thì đêm mới trở thành ngày) như tinh thần văn bia đề cập.

Hay nói cách khác, dân tộc Đại Việt hằng nguyện tiếng kinh cầu “Nguyện ngày an lành, đêm an lành. Đêm ngày sáu thời đều an lành. Tất cả các thời đều an lành. Xin nguyện Từ bi thường gia hộ” như kinh điển từng chỉ dạy. Đây là một thái độ sống của người dân Đại Việt luôn yêu chuộng hòa bình, đoàn kết, tương thân, tương ái. Cho nên trong 50 năm cầm quyền, vua Lý Nhân Tông đã hơn 18 lần làm chùa và tổ chức lễ hội. Cứ mỗi lần xây xong, nhân dân cùng nhà nước tự nguyện cùng nhau tổ chức lễ khánh tạ kỳ an, dân chúng có thêm một trung tâm phục vụ tín ngưỡng, văn hóa giáo dục đào tạo ra những mẫu người yêu nước thương dân, giàu lòng phụng đạo hơn bao giờ hết. 

Trên hết, chùa là nơi là thực thi khát vọng bình an nội tâm, là cơ sở toàn dân trấn giữ đế đô vương triều, bảo vệ chủ quyền đất nước mà Phạm Sư Mạnh đã ca ngợi trong văn bia tháp Báo Thiên ở Thăng Long:

“Trấn áp Đông Tây giữ đế đô, 
Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô
Non sông vững chãi tay trời chống
Nay xửa khôn tiêu đất cắm vồ”

Vì thế, mỗi người dân ai cũng hưởng được trọn phúc lành nhiệm mầu từ ánh sáng từ bitrí tuệ của Phật. Sự kỳ nguyện đầu xuân hàng năm của người con Phật, nó không chỉ trở thành lễ hội tín ngưỡng nữa mà là lễ hội văn hóa dân tộc tình người, trong ý nghĩa phát huy mọi giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, đúng như văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi: “Hương trầm khói tỏa quanh, Gấm vóc khoe xuân sắc, Phúc lành khắp chúng sinh, Gông cùm và tục ngục, Phá bỏ, đời thanh bình”.

Thích Phước Đạt 
(Xuân Mậu Tý)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31912)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10625)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11321)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12866)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10907)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16868)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10908)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23109)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12178)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11588)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10771)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12421)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11286)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10115)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10405)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 12044)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10801)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12456)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9902)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11366)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13909)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9643)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12730)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9796)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10542)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10673)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10389)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9996)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11127)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12082)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10226)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10862)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9621)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9987)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8856)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9568)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14615)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8852)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12645)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10515)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9183)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10645)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9418)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8871)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10593)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9296)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8433)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12120)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9781)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10279)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10285)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19289)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9486)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9057)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9651)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9078)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14869)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10160)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8421)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9011)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9045)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8830)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9430)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14729)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9109)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8856)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9111)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10617)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8718)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10073)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24428)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10252)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11114)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9089)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9561)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8109)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9356)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15478)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10428)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9639)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17569)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21603)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12235)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10297)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19396)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26214)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8034)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14919)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10721)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9604)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18808)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12464)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11988)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10838)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13434)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10094)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9349)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9453)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15999)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant