Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10016)
Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

QUỐC LỄ CẦU AN CHÚC THỌ ĐẦU NĂM
TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ
Thích Phước Đạt

 


Kể từ khi đất nước ta bước sang thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn, đến triều đại nhà Lý thì Phật giáo đã tự khẳng định vai trò của mình không chỉ trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng mà còn tham gia tích cực trong việc phục hưng mọi giá trị văn hóa của dân tộc.

Ta thấy, một trong những việc làmý nghĩagiá trị thiết thực đối với dân chúng là tổ chức các lễ hội cầu an mang tính quốc gia vào các dịp đầu năm do Phật giáo tổ chức dưới sự bảo trợ của triều đình. 

Một mặt Nhà nước kết hợp với Phật giáo tổng kết các thành tựu của quốc gia trên mọi lĩnh vực, tuyên dương công đức của cá nhân và tập thể đã đóng góp cho nước nhà, cho dân tộc. 

Mặt khác, Nhà nước cũng muốn phô diễn và thị uy với các sứ giả lân bang biết về sức mạnh của Đại Việt. Qua đó, nhà vua cũng tuyên cáo những chủ trương và đường hướng hoạt động của nước nhà như là lời ước nguyện của dân tộc trước thời khắc trọng điểm của một năm mới. 

Theo sử sách ghi nhận, trong vòng gần 200 năm trị vì, nhà Lý đã tổ chức rất nhiều lễ hội kỳ an đầu năm cho toàn thể dân chúng Đại Việt. Nhưng nổi bật hơn cả, vào thời kỳ vua Lý Nhân Tông, mà chính sử Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược ghi về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu

 

blankCụ thể Đại Việt sử lược 2 tờ 20b8 và 22a4-5 ghi vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng, tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và vào năm Bính Thân (1116) lại ghi “Mùa Xuân tháng Giêng tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng, chế tạo nhà sư bằng gỗ cột vào đánh chuông”.

Còn Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ 20b5 và tờ 24a9-b1 ghi vào năm Canh Tý (1120) “Mùa Xuân, tháng Hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.

Chính sử chỉ ghi như vậy thôi, chẳng có thêm thông tin gì cả. Nhưng may mắn thay, tư liệu đương thời là bài Đại Việt đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi của Thượng thư Nguyễn Công Bật, (Thơ văn Lý Trần, tập 1, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977) thì lại mô tả khá chi tiết về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu để chúng ta nhận định về quy mô tổ chức, tính hoành tráng và ý nghĩa sự kiện trọng đại này trong đời sống văn hóa dân tộc.

Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo, là hệ tư tưởng để thực thi các nhiệm vụ trọng đại mà nhu cầu lịch sử dân tộc đặt ra. 

Thế nên Lý Nhân Tông trong vai trò lãnh tụ tối cao của quốc gia, một Phật tử thuần thành đã đề xuất với Thiền sư Mãn Giác rằng “Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu nước, cứu người, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không chỉ có sức định tuệ, mà cũng có công phò tá”. 

Và như thế, mọi người dân Phật tử Đại Việt không ngừng tu tập giới định tuệ mà còn phải tích cực tham gia đóng góp cho công cuộc tái thiết nước nhà, xây dựng quê hương. Vào thời kỳ này, ta thấy việc xây chùa, dựng tượng, đúc chuông được diễn ra khắp mọi nơi như biểu thị thành quả của đất nước trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế. Lễ kỳ an chúc thọ hàng năm của triều đình trở thành lễ kỳ nguyện cả dân tộc “trấn giữ kinh đô của nhà vua” (trụ tích trấn vương kỳ), là nơi thể hiện khát vọng của cả dân tộc mà sử sách ghi “cầu phúc thọ”.

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh mà Thượng thư Nguyễn Công Bật ghi nhận mục đích của việc xây chùa “để mồng một hàng tháng, để mùa Xuân hàng năm, nhà vua mình ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay, hương hoa bày lễ cầu an, bồn chậu để tắm Phật. Trang sức tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa, tinh cần chẳng trễ, kính phụng nào ngơi. 

Vì vậy mà huyền tạo linh thông đều phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa để cầu phúc thọ”. Rõ ràng việc kỳ an đầu năm, đầu tháng mà nhà vua xuống chiếu tổ chức để thành lệ hàng năm không còn ý nghĩa cho chỉ riêng mình vua và hoàng tộc mà cả dân tộc, của trăm họ muôn dân đang sống trong biên cương lãnh thổ Đại Việt bấy giờ. 

Và ta chẳng ngạc nhiên khi các thư tịch văn bia liên hệ đến việc xây dựng chùa chiền đều xác định rõ quan điểm nhất quán là, việc tạo dựng chùa chiền, tổ chức lễ hội kỳ an là nhằm thiết lập, thực thi ý nguyện xây dựng và phát triển dân tộc Đại Việt trở nên cường thịnh, đạo pháp được trường tồn

Cho nên, trong bài “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký” do Chu Văn Thường viết vào khoảng năm 1100, đã không ngần ngại ghi vào “Nhóm người dựng chùa là để mãi mãi giữ lấy nước nhà” (mộ tu tượng pháp, vĩnh bảo bang gia).

Trong ý nghĩa đó, sự chuẩn bị lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếuchính sử ghi nhận được tổ chức hoành tráng. Nếu không có sự bảo trợ của nhà nước phong kiến thì giới Phật giáo cũng không thể thực thi và hoàn thành được. Một đại lễ kỳ an chúc thọ gắn liền lễ hội đèn Quảng Chiếu 7 ngày đêm, cả hoàng gia và dân chúng Đại Việt được sống thế giới Phật quốc an lành. Tất cả đã nói lên tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân biệt mọi thành phần, tầng lớp khác nhau trong xã hội, cùng nhau hướng nguyện xây dựng cuộc sống thật thanh bình, quốc gia thật vững bền

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh tả như sau: “Dựng đài cao Quảng Chiếu, nhắm sân trước cửa Đoan Môn, trong nêu một cột, ngoài đặt bảy tầng, uốn mình rồng hình cung hiện ra mà đỡ lấy sen vàng, may lồng nhiễu mà che cho lửa nến, giấu máy nhỏ dưới đất, xoay tròn như bánh xe, tỏa ánh sáng giữa trời như mặt trời rực rỡ, lại có thánh báo nghiêm trang rõ ràng. Đền vàng điện báu nhờ thành ý mà dựng nên, đặt ngôi tượng Đức Phật cao vót, dáng vẻ văn thiên, hình thô vẻ lạ.

Lại có hai tòa lầu hoa trong treo chuông vàng, khắc hình nhà sư, mình đắp y phước điền, vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh… Lại có tháp thất bảo rực rỡ bày xếp một hàng, chính giữa đặt một ngọn núi vàng, đặt tượng lành Đa Bảo Như Lai, bảy chân hình xe pháp mấy tầng, mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng, mái ngói lung linh vẻ mây biếc ban chiều. 

Thứ đến là hai tòa Bạch Ngân. Bên trái đặt chân dung A Di Đà, bên phải dựng tượng Đức Diệu Sắc Thân, chiều cao mở ra thế khỏe, vẻ đẹp phô rõ mái cong, long lanh ngỡ tuyết đang tan, rực rỡ át trăng thu vằng vặc. 

Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn. Bên trái đặt từ nhang tướng của Như Lai Quảng Bác Thân, bên phải thờ diệu tướng của Như Lai Ly Bố Úy, gác lớn đã hoàn thành, độ cao lại xây dựng, nóc che ngói quý, vách chạm hình rồng. 

Lại thứ nữa có hai tòa Tượng Xỉ. Bên tả đặt hình Đức Cam Lồ Vương, bên hữu thờ tượng đẹp Đức Bảo Thắng Phật, chất quý gọt mài, cột hiên cao dựng, các cạnh khám ngọc đẹp… 

Lại tả chín tầng trời bằng năm sắc, khắc bốn cột bằng cặp đối treo, hai bên nghìn đèn nhấp nháy, bốn mặt rực rỡ vàng son. Dốc lòng vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày, thỏa lòng mắt của thế gian, già đổi nên trẻ. Ấy là công lao xây dựng thắng duyên của bệ hạ”.

Với cách mô tả như trên, ta thấy lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu thật hoành tráng, nó được thực thi theo mô hình thiết kế được rút ra từ trong các kinh điển nhà Phật mang một giá trị tâm linh, với mục đích nguyện cầu âm siêu dương thái. 

Hay nói cách khác đó là sự kết nối yêu thương của bao thế hệ cha ông và con cháu Đại Việt xưa naynhà sư thường khấn nguyện trong các buổi lễ kỳ an với tâm thành mong muốn “quốc thái dân an”. 

Điểm nhấn của mô hình lễ hội này là ngôi tháp 7 tầng hùng vĩ với sự trang hoàng hết sức cầu kỳ bằng châu ngọc, được thiết kế với các thiết bị đặt ngầm bên dưới để có thể quay chiếc tháp 7 tầng. Điều đáng nói là bên trong ngôi tháp tôn trí tượng Đa Bảo Như Lai trên ngọn núi vàng. Hai bên tòa Bạch Ngân đặt tượng A Di Đà và Đức Diệu Sắc Thân. Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn đặt hai tượng Đức Như Lai Quảng Bác ThânLy Bố Úy. Và cuối cùng là hai tòa Tượng Xỉ thờ Đức Cam Lồ Vương và Bảo Thắng. Bảy vị Như Lai này tuy thuộc hệ Mật giáo, nhưng lại được đề cập tới rất giới hạn như một hệ thống bảy Đức Như Lai

Theo các bản kinh như Du già tập yếu cứu A Nan nghi quỷ, Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi kinh và Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Đà la ni thuộc Đại tạng kinh thì 7 vị Như Lai này có chung một chức năng độ trì được thực thi trong các nghi thức chẩn tế, bạt độ, cúng ngạ quỷ của Phật giáo. Và trong một lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu vui như lễ hội dân tộc nhằm “dốc hết hòa vui của thiên hạ, để đêm trở thành ngày” không thể không có mô hình “thất bảo Như Lai” vừa mang tính hoành tráng vừa mang giá trị tâm linh kết nối yêu thương các loài, các thế hệ với quan điểm đầy chất nhân văn “âm siêu dương thái”. 

Rõ ràng việc thờ tự và đỉnh lễ 7 vị Phật này trong lễ hội kỳ an trọng đại đầu năm như thế này là có lý do của nó. Bản kinh Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà la ni kể rằng có một con quỷ đói hiện ra trước mặt A Nan và báo rằng ba ngày nữa là chết. Trước cái cảnh bi thảm như thế, A Nan đã hỏi ngạ quỷ ấy làm sao thì khỏi chết. Quỷ bảo rằng phải bố thí cho nó. A Nan đến thỉnh cầu Phật và được Ngài chỉ cho nghi thức cúng quỷ đói. Nhờ việc bố thí đó mà A Nan đã không những thoát chết mà còn trường thọ

Đúng như bản kinh chép “Ban thức ăn cho quỷ đói thì liền có thể đầy đủ được vô lượng công đức, giống như công đức cúng dường cho trăm ngàn ức Như Lai không sai khác. Được thọ mạng lâu dài, tăng thêm sức lực và vẻ đẹp, căn lành đầy đủ. Hết thảy A tu la, Dạ xoa, La sát, các ác quỷ thần không dám xâm hại, lại thành tựu được vô lượng công đức thọ mạng”. 

Cho nên, trong một thời khắc quan trọng của ngày đầu năm, hẳn nhiên người ta càng mong muốn được Phật Thánh độ trì cho mình và mọi người được sống lâu trường thọ, sắc thân thêm tươi đẹp. Xem ra từ một nghi thức cúng cho quỷ đói, nó đã được đưa vào trong nghi lễ cầu an, cũng như trong các lễ hội dân tộc, phục vụ cho người còn sống. Tại đây ta dễ dàng hiểu tại sao một lễ hội đèn Quảng Chiếu rực sáng suốt đêm như ánh mặt trời chiếu ban ngày, nhộn nhịp và tưng bừng như thế lại có thêm nghi thức cúng quỷ đói của Mật giáo. Bởi vì có gì hạnh phúc hơn bằng khi con người được Phật độ trì sống lâu, mạnh khỏe và sắc đẹp thêm bội phần. 

Cũng vì lẽ này mà trong tâm thức người Việt Nam kể từ đó, bất cứ sự kỳ nguyện nào, nghi thức cúng cấp nào phục vụ cho người sống đều kèm theo nghi cúng cô hồn để nguyện cầu tăng phước và tăng thọ. 

Hơn nữa, trong xu hướng đất nước phát triển thịnh vượng thì đời sống văn hóa nước Đại Việt càng có nhiều cơ hội để thăng hoa từ văn hóa vật chất cho đến văn hóa tinh thần. Những lễ hội văn hóa dân tộc như lễ cầu an - hội đèn Quảng Chiếu mang âm hưởng màu sắc chủ đạo Phật giáo thường được tổ chức trọng thể dưới sự bảo trợ của chính quyền nhà Lý là một dịp dân chúng nước Đại Việt tiếp xúcthông cảm hòa hợp giữa các thành phần trong xã hội

Bởi vì, dù là ai, hoàng tộc hay bần nông khi vào cửa Phật đều là con nhà Phật cả, nghĩa là con một nước theo nghĩa “đất vua - chùa làng - phong cảnh Bụt”. Trên hết, là sự biểu đạt tinh thần đoàn kết toàn dân, sự yêu thương, độ lượng khoan dung từ triết lý từ bi hỷ xả của đạo Phật được vận dụng trong chính sách chủ trương của Nhà nước.

Do đó, cứ vào dịp lễ hội nào, nhất là lễ kỳ an đầu năm theo thông lệ thì vua đều xuống chiếu phóng thích tha tội chết hoặc tha cho những tội phạm trong nước như Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi. Nó được thực thi bởi những vị vua Phật tử đời Lý, lấy nhân từ làm gốc, đến nỗi sau này sử thần Lê Văn Hưu dưới cái nhìn Nho học mà phê bình khá gay gắt trong Đại Việt sử ký toàn thư về chính sách khoan dung độ lượng nhà Lý: “Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà tha cho người có tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không có việc gì mà cũng tha bổng. Phàm người có tội phạm pháp, có kẻ nặng người nhẹ, năm bậc hình phạt, có trên có dưới, sao lại tha bổng được? Nếu nhất loạt tha cả thì kẻ tiểu nhân may mà được khỏi tội, đó không phải là phúc của người quân tử. Cho nên thời xưa nói về đạo trị nước, tuy nói rằng không thể không xá tội, nhưng cũng cho rằng xá tội là có hại. Tha lỗi thì được, tha tội thì không được. Kinh Dịch nói ‘Tha lỗi, giảm tội’. Kinh Thư nói ‘Lầm lỗi thì tha cho, cố phạm thì trị tội’. Thế là phải”. 

Chưa dừng ở đó, lễ hội kỳ an -đèn Quảng Chiếu mà sử sách và văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi nhận là một dịp không chỉ dân ta vui vẻ mừng năm mới đến mà còn là dịp để biểu dương sức mạnh cả dân tộc đối với các nước lân bang. Điều đó chứng tỏ Phật giáo không chỉ tham gia vai trò cố vấn chính trị mà còn có tham gia phò tá đóng góp công sức trên các lĩnh vực khác của đời sống dân chúng Đại Việt. 

Ta thấy chính sử ghi có 4 lần vua Lý Nhân Tông tổ chức lễ hội, trong đó có một lần xuống chiếu mời sứ thần Chiêm Thành tham dự. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh diễn tả lễ hội Quảng Chiếu cực kỳ công phu để lại dấu ấn lớn trong lòng dân Đại Việt. Nó như biểu dương sức mạnh cả dân tộc đang vươn hình hài lớn dậy để bước sang thời kỳ hoàng kim, thắp sáng hàng nghìn ngọn đèn như tỏ ý kinh Thăng Long từ đây chấm dứt đêm dài thời trung cổ. Sự thật lễ hội kỳ an - đèn Quảng Chiếu đã minh chứng tinh thần sức sống Đại Việt “Khuynh thiên hạ chi ung hòa, dạ vi trú thưởng” (dốc lòng hòa vui thiên hạ thì đêm mới trở thành ngày) như tinh thần văn bia đề cập.

Hay nói cách khác, dân tộc Đại Việt hằng nguyện tiếng kinh cầu “Nguyện ngày an lành, đêm an lành. Đêm ngày sáu thời đều an lành. Tất cả các thời đều an lành. Xin nguyện Từ bi thường gia hộ” như kinh điển từng chỉ dạy. Đây là một thái độ sống của người dân Đại Việt luôn yêu chuộng hòa bình, đoàn kết, tương thân, tương ái. Cho nên trong 50 năm cầm quyền, vua Lý Nhân Tông đã hơn 18 lần làm chùa và tổ chức lễ hội. Cứ mỗi lần xây xong, nhân dân cùng nhà nước tự nguyện cùng nhau tổ chức lễ khánh tạ kỳ an, dân chúng có thêm một trung tâm phục vụ tín ngưỡng, văn hóa giáo dục đào tạo ra những mẫu người yêu nước thương dân, giàu lòng phụng đạo hơn bao giờ hết. 

Trên hết, chùa là nơi là thực thi khát vọng bình an nội tâm, là cơ sở toàn dân trấn giữ đế đô vương triều, bảo vệ chủ quyền đất nước mà Phạm Sư Mạnh đã ca ngợi trong văn bia tháp Báo Thiên ở Thăng Long:

“Trấn áp Đông Tây giữ đế đô, 
Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô
Non sông vững chãi tay trời chống
Nay xửa khôn tiêu đất cắm vồ”

Vì thế, mỗi người dân ai cũng hưởng được trọn phúc lành nhiệm mầu từ ánh sáng từ bitrí tuệ của Phật. Sự kỳ nguyện đầu xuân hàng năm của người con Phật, nó không chỉ trở thành lễ hội tín ngưỡng nữa mà là lễ hội văn hóa dân tộc tình người, trong ý nghĩa phát huy mọi giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, đúng như văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi: “Hương trầm khói tỏa quanh, Gấm vóc khoe xuân sắc, Phúc lành khắp chúng sinh, Gông cùm và tục ngục, Phá bỏ, đời thanh bình”.

Thích Phước Đạt 
(Xuân Mậu Tý)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25568)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37833)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18592)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14181)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20061)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9470)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14328)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35485)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10617)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19644)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23160)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13336)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10714)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20160)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10569)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9921)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14839)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17587)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17540)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13134)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31086)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25667)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13941)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17465)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10932)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12252)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10435)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12235)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11731)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9593)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12307)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9151)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8454)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9921)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9733)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11998)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14368)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9881)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11180)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8269)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10945)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14029)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9873)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15149)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12994)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23033)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23894)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12520)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15390)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17730)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14995)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16505)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16007)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17543)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11562)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11593)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17777)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10728)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10497)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11280)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12042)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11010)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36361)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8935)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9625)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34663)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17225)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10208)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10430)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12157)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13575)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14597)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9123)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24754)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11609)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10289)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15891)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15525)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14476)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12966)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12409)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14526)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18308)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9549)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18485)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18538)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18982)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18776)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11781)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13291)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47943)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11021)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13514)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13006)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11042)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12523)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11035)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31727)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11641)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant