Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9326)
Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN II. Phù trợ người lâm chung

Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử

Mặc dù tất cả giáo pháp của Đức Phật đều có chung một mục đích, nhưng các giáo pháp này lại vô cùng khác biệt trên phương diện đề tài cũng như sự tu trì. Mỗi quyển kinh sẽ nhấn mạnh một điểm nào, trên một chiều hướng nào đó. Vì đức Phật rất quan tâm việc làm sao giúp các đệ tử Thanh văn đương thời của Ngài một cách hữu hiệu nhất, bằng cách ban cho họ những tư liệu mà họ có thể dùng được và không nhận chìm họ với những dữ kiện dư thừa. Ngài không hề tìm cách giảng về một đề tài từ đầu đến tận cùng rốt ráo để rồi không bao giờ trở lại nữa. Ngài thường phân bố các điều giải thích dần dần trong các bài Pháp, và không ngại nhắc lại nhiều lần các ý niệm quan trọng, nếu cần thì thêm một sắc thái, một sự soi sáng hay mở bày mới hơn.

Theo cách đó, trong quyển "Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử", một lần nữa đức Phật tuyên thuyết về các trạng thái tâm thứcchúng ta nên phát khởi lúc gần nhắm mắt lìa đời. Lần này có năm tâm thức.

Có một số trong năm tâm thức này đã được đề cập trong bản kinh trước, nhưng lại được phát biểu một cách hơi khác đi, như quý vị sẽ thấy.

Theo thông lệ, trước tiên tôi sẽ truyền dạy kinh này bằng cách đọc lên [toàn văn kinh] một lần:

"Quy mạng nhất thiết chư Phật và chư Bồ Tát.

Tôi nghe như vầy, một thời Bạc Già Phạm tại Sắc Cứu Cánh thiên cung, thuyết Pháp cho đại chúng. Lúc ấy Hư Không Tạng Bồ Tát, vị đại anh hùng, lễ Bạc Già Phạm và hỏi rằng:

Bạc Già Phạm, Bồ Tát phải quán như thế nào vào lúc cận tử?

Bạc Già Phạm dạy:

Hư Không Tạng Bồ Tát, lúc cận tử, Bồ Tát phải quán các diệu trí lúc cận tử. Thế nào là các diệu trí lúc cận tử?

1) Vì tất cả các pháp bản thể đều thanh tịnh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán về tánh Không của tất cả các pháp.

2) Vì tất cả các pháp đều có trong tâm Bồ-đề, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm đại bi.

3) Vì tất cả các pháp bản thể là quang minh, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán vô nhất vật trong các pháp.

4) Vì tất cả các pháp đều vô thường, nên quán tưởng viên mãn nhất là quán tâm vô chấp.

5) Vì tâm là nhân của trí huệ bát-nhã, đừng tìm tánh Phật ở đâu khác.

Bạc Già Phạm lặp lại bằng kệ rằng:

Các Pháp vốn thanh tịnh,
Hãy quán về tánh Không.
Đầy đủ Bồ-đề tâm,
Hãy quán tâm đại bi.

Các pháp vốn quang minh,
Quán pháp vô nhất vật.
Các Pháp vốn vô thường,
Hãy quán tâm vô chấp.

Tâm sinh diệu trí huệ,
Phật tánh tìm đâu xa?

Bạc Già Phạm thuyết Pháp như thế rồi, Bồ Tát Hư Không Tạngđại chúng vô cùng hoan hỉ tán thán.

Phật thuyết Kinh Đại thừa nói về các diệu trí vô thượng lúc cận tử."


Kinh Đại thừa này đã được tuyên thuyết trong điều kiện nào? Đó là một ngày đức Phật có các vị đệ tử vây quanh, nhất là các vị Bồ Tát. Một trong các vị Bồ Tát này tên là Hư Không Tạng (Tạng ngữ: Namkhai Nying Po) đảnh lễ đức Phật và hỏi: Lúc cận tử, các vị Bồ Tát nên quán như thế nào?

Trong lời giải đáp, đức Phật dùng chữ "diệu trí vô thượng" để nói về năm trạng thái tâm thức mà Ngài đặc biệt sách tấn. Chúng ta đã thấy rằng mình không bắt buộc phải áp dụng cả năm. Ngược lại, mục đích là để có sự lựa chọnáp dụng vào từng trường hợp riêng, tùy theo điều mà người lâm chung có thể hay không thể tư duy: tánh Không, hoặc tâm đại bi v.v...

1. Quán tánh Không

Lời dạy rất ngắn gọn này thật ra nói lên sự không có thực của vạn vật, tức là tánh Không của chúng. Lúc lâm chung, khởi lên trong tâm trí tuệ về tánh Không của các pháp là một điều vô cùng lợi ích. Để giảng rộng lời kinh, "các pháp" nghĩa là các hiện tượng, "bản thể vốn hoàn toàn thanh tịnh" nghĩa là bản thể của chúng hoàn toàn không có tự tánh hay thực thể. Vì thế, chúng ta phải quán xét, phải phát triển hiểu biết về sự vắng mặt của tự tánh [tự tồn] trong tất cả hiện tượng như nói trên.

Tôi nghĩ rằng quý vị nghe câu này có vẻ quen thuộc, vì chúng ta đã gặp lại niệm tưởng thứ mười trong mười một niệm tưởng đã được nêu rõ trong quyển kinh đề cập trước đây.

Không cần phải nói, lời khuyến dụ này không phải dành cho bất cứ ai cũng được. Người nghe phải từng được học tập trước đó, phải có một hiểu biết căn bản. Nhưng nếu đã có được sự hiểu biết cần thiết, việc có thể quán xét về tánh Không trong giờ phút ấy sẽ mang đến một sự lợi ích lớn lao, bởi rất nhiều lý do. Chúng ta đã đề cập qua, nhưng nhắc lại về khái niệm này cũng không phải là một sự dư thừa.

Trong Phật giáo, "phàm phu" là người còn ở trong cõi Ta-bà, còn luân hồi trong các cảnh giới hữu vi quyết định bởi nghiệp và phiền não. Cho rằng đó là trường hợp của chúng ta, thì nguyên nhân là từ vô thủy chúng ta đã bị đánh lừa bởi nhận thức sai lầm về cái gì là có. Thế nhưng, nếu phân tích một cách đúng đắn thì chúng ta có thể nhận ra rằng sự vật được nhận thức – bất cứ một hiện tượng nào – có thật đấy, nhưng chắc chắn không phải dưới dạng thức mà nó trình hiện. Đúng vậy, cái hình tướng trình hiện trong tâm trí chúng ta là một sự kiện được nhận thấy một cách biệt lập với sự vật khác. Chúng tacảm tưởng là nó xuất hiện bằng chính khả năng của nó, không tùy thuộc vào bất cứ sự kiện nào khác, vào một nhân hay một duyên nào, trong khi sự thật lại khác hẳn.

Các hiện tượng có là một điều đương nhiên, nhưng chúng luôn luôn đến từ một nhóm nhân tố, nói giản dị là từ một nhóm nhân duyên. Thế mà tâm trí ta lại thấy ngược hẳn, và trong khi cảm nhận của chúng ta hoàn toàn sai lầm, ta lại tin đó là chân thật đến nỗi ta chấp vào sự vật dưới cái hình tướng chung ấy. Chúng ta tin rằng sự vật tự có, và có một cách độc lập, ta gán cho chúng một tính cách tuyệt đối. Chính cái thấy sai lầm đó của chúng ta đối với tất cả các sự hữu đã tạo nên cái vô minh gọi là căn bản, vì vô minh này đã trói chặt chúng ta vào cõi Ta-bà từ vô thủy cho đến nay.

Cho nên, hiểu theo hướng ngược lại, thấy được sự thật, nhận thức được sự vắng mặt của tự tánh là rất có ích cho chúng ta. Nhất là nếu quán xét được như thế ngay trước khi chết thì thật là kịp lúc.

Tốt hơn hết là hãy lấy một thí dụý nghĩa vì gần với ta nhất, đó là cái "tôi", cái "ta", và cách thức mà chúng ta tự nhận thức về mình. Suốt ngày chúng ta dùng đến chữ "tôi", chữ "ta": "Tôi làm cái này, tôi làm cái kia", "tôi đi đến chỗ đó" v.v... Khi chúng ta đang nghĩ như thế, "ta đến, ta đi" v.v… và khả năng thực hiện điều đó tùy thuộc vào cái cấu tạo cá nhân chúng ta, nghĩa là vào thân và tâm ta. Ấy vậy mà chúng ta không thấy khía cạnh đó, và ta không hề nghĩ rằng mọi sự vốn diễn tiến như thế.

Thật ra, thỉnh thoảng chúng ta nên dành một ít thì giờ để quan sát cách ta nhận thức về chính mình khi nghĩ đến những gì ta làm, điều này khá quan trọng. Khi chúng ta đang nghĩ đến chương trình "ta sẽ đi đến đó", thì ta hình dung cái "ta" đó như thế nào? Phải chăngchúng ta hình dung nó như một cái "tôi" hoàn toàn độc lập, tự hữu, không tùy thuộc vào bất cứ gì khác, ngay cả thân và tâm của nó? Phải chăng đó là hình ảnh được thành lập trong trí của chúng ta?

Hình ảnh một cái "tôi" độc lập đối với tất cả, và nhất là đối với thân và tâm, là cái mà ta gọi là "chấp ngã", biểu trưng của sự vô minh. Rõ ràng chúng ta hiện hữu như một cá nhân, nhưng để hiện hữu, chúng ta phải có một thân và một tâm đã chứ! Không biết chúng ta sẽ làm cách nào để hiện hữu như một cái "tôi" nếu hoàn toàn không kể đến thân tâm và không tùy thuộc vào chúng?

Ấy vậy mà chúng ta nào có nhận thức sự vật như thế đâu! Thật thế, khi chúng ta nghĩ "tôi sẽ đi đến chỗ đó", ta nhận thức về cái "tôi" ấy rất giản dị, nếu không nói là đơn giản hoá quá mức! Chúng ta hài lòng với ý nghĩ "tôi" trong tâm, không hề đặt nghi vấn, cho đến nỗi không một chút nghi ngờ rằng cái "tôi" ấy không hề độc lập như mình tưởng!

Để lấy một thí dụ rõ rệt hơn, hãy tưởng tượng là có người công kích hay lăng nhục chúng ta. Thường thì chúng ta phản ứng như thế nào? Hãy thú nhận rằng chúng ta rất phật ý và cảm thấy có chút gì tức giận. Vì chúng ta phẫn nộ, có thể chúng ta nảy sinh ý nghĩ: "Nó dám nói thế với ta! Với chính ta!" Và cái "ta" ấy có vẻ tự áp đặt lên chúng ta. Nó hiển hiện như một thực tại, tự hữu, một hiện thể tuồng như độc lập. Chắc chắn không phải trong những lúc như thế mà chúng ta có thể tự nhận ra rằng cái tự xưng là "ta" tuyệt đối ấy hoàn toàn không hề tuyệt đối. Phải, chúng ta hiện hữu như một cái "ta", như một "cá thể", nhưng là tùy thuộc vào thân và tâm của mình. Không có thân và tâm, chúng ta là cái gì?

Xét trường hợp ngược lại. Lần này chẳng những người đối diện không công kích ta mà còn đưa ta lên mây: "Tôi phục ông (hay bà) quá! Ông thật là tài trí vẹn toàn! Ngoài sự hiểu biết uyên thâm, ông còn tỏ ra thật là tốt đối với người khác! Đã vậy mà còn sang trọng quá!"

Trước những lời tâng bốc như thế, có người vẫn có thể giữ tâm bất động và biết rõ mình thật sự như thế nào, nhưng phần đông sẽ cảm thấy khoái chí, êm tai. Thay vì nhận thấy đó chỉ là những lời nói làm đẹp lòng, thường thì họ lại dễ dàng nảy sinh ý nghĩ: "Nghĩ cho cùng, ông ta nói đúng! Ta đây cũng khá lắm chứ!" Đồng thời, ý niệm chúng ta có về chính mình như là một cá nhân có thật, rõ ràng hiện hữu bằng chính khả năng của mình. Hắn có đó, hoàn toàn có đó. Chúng ta thấy như vậy và không đi tìm xa hơn.

Một thí dụ khác rất thông thường. Cho là chúng ta có một ngôi nhà. Nhưng mái nhà bị thủng và chúng ta phát hiện có nước dột. Là một tay thợ gan dạ, chúng ta quyết định tự sửa lấy. Vì chỗ dột nằm ngay bên cạnh máng nước, chúng ta bèn mạo hiểm trèo lên gần mé. Thình lình chân ta trượt trên mái nhà, chúng ta hoảng hồn, sợ điếng người. Thật ra chúng ta chưa ngã, chỉ bị trượt chân thôi, nhưng lập tức chúng ta hãi hùng nghĩ rằng "Tôi ngã!" Và dĩ nhiên, cái "tôi" đó rất thật có đối với chúng ta. Chúng ta thấy đó là một cái gì hoàn toàn tự nó hiện hữu, chứ không hề nghĩ rằng cái "tôi" ấy, nghĩa là cá nhân của chính ta đây, là một hiện tượng hoàn toàn tương đốigiả danh. Trong giai đoạn hiện thời, chúng ta không có khả năng nghĩ như thế!

Khi ở bờ mé của mái nhà hay của một hố thẳm chúng ta hoảng hốt kêu lên "tôi ngã", hay trước mặt mọi người, sung sướng với những lời tâng bốc quá khích chúng ta tự bảo "nghĩ cho cùng, ta cũng khá lắm chứ!", cái khái niệm "tôi" hình thành trong trí chúng ta [theo cách đó] có phải là một sự "chấp thật có" không? Không, chưa hề. Bề ngoài nó có vẻ như thật một cách tuyệt đối, nhưng chúng ta chưa nảy sinh tâm chấp trước vốn đi đôi với sự thật sai lầm ấy. Tuy nhiên, một nhận thức về một sự việc mà tướng trạng chung có vẻ như hiện hữu độc lập theo lý thuyết lại thường kéo theo một tâm chấp trước đối với tướng trạng chung ấy. Thế là chúng ta tin rằng cá nhân thật sự hiện hữu dưới bề ngoài ta nhìn thấy được, hay nói cách khác, đúng như tướng trạng chung mà họ trình hiện. Vậy thì, sự chấp thật tức là sự tin tưởng rằng đối tượng được nhận thức – ở đây là cái cá nhân dưới dạng cái "tôi" – tự nó hiện hữu, không tùy thuộc vào bất cứ gì khác.

Để miêu tả từ đầu đến cuối tiến trình này, trong trường hợp một kẻ phàm phu, thì người này hình dung bất cứ đối tượng nhận thức nào của mình, và đặc biệt là cái "tôi", hoàn toàn biệt lập với tất cả mọi nhân duyên. Trên căn bản của những sắc tướng bên ngoài như thế, họ bèn "chấp" mọi vật dưới dạng ấy: Họ tin chắc rằng mọi sự vật, và đặc biệt là chính con người của họ, hiện hữu thật sự dưới hình tướng mà họ nhận thấy. Đó là cái mà Phật giáo gọi là "chấp ngã", hay nói cách khác là "chấp thật".

Sự chấp ngã ban cho đối tượng bị chấp (cái sở chấp) một quyền lực rất lớn, chấp ngã càng nặng bao nhiêu thì quyền lực càng lớn bấy nhiêu: cái cá nhân có vẻ như thật có (với nghĩa là biệt lập với mọi nhân duyên) được thành lập như một cái gì tuyệt đối và có một tầm quan trọng tối cao đối với người chấp ngã (năng chấp). Khái niệm về "tôi" càng chắc chắn bao nhiêu thì khái niệm về "người khác" cũng đồng thời chắc chắn và rõ rệt bấy nhiêu. Sự ngăn cách giữa "tôi" và "người khác" trở nên rất rõ ràngtriệt để, và không hề có một mối tương quan hay một nhịp cầu nào giữa hai bên. Kết quả là, một cách rất tự nhiên và không thể tránh được, ta cảm thấy đắm luyến mãnh liệt đối với cái "tôi" mà ta cho là tối thượng, cùng với tất cả những gì mà ta nghĩ là đứng về phe ta. Và cũng không tránh được, điều đó làm khởi sinh ác cảm với "kẻ kia" và những gì dính dấp tới hắn. Từ đó – sự đắm luyến đối với chính mình cùng những gì thuộc về mình, và ác cảm đối với kẻ khác lẫn những gì thuộc về họ – nảy sinh tất cả mọi phiền não của tâm thức. Và mỗi lần các phiền não khởi sinh, dầu là vì đắm trước hay vì ác cảm, chúng sẽ tác động lên ba bình diện (thân, khẩu và ý) và kéo theo sự tích lũy trong tâm những chủng tử tương đương. Sau đó, các chủng tử ấy sẽ biến thành nghiệp báo đưa chúng ta đi vào những kiếp tái sinh mới trong cõi Ta-bà.

Đó là cách phàm phu cứ thế mà xoay vần trong thế giới Ta-bà, do phiền nãonghiệp thức đưa đẩy đi từ cõi hữu vi này đến cõi tạo tác khác. Khi ta tự bảo là nên, hay nói cách khác là phải, cấp bách thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn ấy, cái vòng luân hồi vô tận đưa ta đến những kiếp tái sinh đồng loại ấy, thì chỉ có một cách duy nhấtchấm dứt ngay những yếu tố nuôi dưỡng nó. Phải trừ diệt vô minh, và chính xác hơn là cái vô minh ngã chấp. Đó là lý do vì sao trong bản kinh này đức Phật đã nhấn mạnh ngay từ đầu là người hấp hối mà tư duy được, tức là hiểu được "vạn pháp đều không", với nghĩa là chúng không "có" một cách biệt lập và có thật tánh – thì thật là tốt cho người ấy.

Một người phàm phu chắc chắnchấp ngã, nhưng điều đó không có nghĩa là sự chấp ngã lúc nào cũng hiện diện trong tâm thức họ. Điều đó không phải lúc nào cũng rõ ràng minh bạch. Chỉ trong những trường hợp như vừa đề cập trên thì nó mới xuất hiện một cách rất rõ nét. Vậy thì chính những kinh nghiệm hơi tế nhị, tốt hay xấu, khởi động niệm tưởng về ngã khiến cho sự chấp ngã công khai phát xuất. Nếu không, dĩ nhiên là sự chấp ngã hiện hữu nơi mỗi người, nhưng rất thường xuyên một cách tiềm tàng.

Tại sao tư duy về tánh Không, về sự vắng mặt của tự tánh vào lúc cận tử lại là điều đáng làm và phải lúc?

Vì là phàm phu, nên từ vô thủy chúng ta đã quen chấp ngã, tức là cái vọng tưởng chấp lấy mọi sự vật và ngay cả chính mình, như những thực thể tuyệt đối. Lúc giờ chết gần kề, sự chấp ngã trở nên mãnh liệt bội phần. Nó sẽ nổi lên với một sức mạnh vô song, một là do thói quen cố hữu, hai là vì cái giờ phút tế nhị đang trải qua. Thế nhưng, sự chấp ngã tăng cường sẽ củng cố tất cả những gì mà nó phát sinh.

Với thời gian, chúng ta đã chấp trước khá nhiều vào chính chúng tathân tâm của mình. Trong những giây phút quá đặc biệt này, sự chấp trước tăng lên rất mạnh vì chúng ta biết rõ rằng mình sẽ không còn ở lâu trong cõi đời này nữa. Thân xác chúng ta sẽ không còn nữa. Chúng ta sẽ phải bỏ nó lại phía sau vì nó sẽ bị tiêu diệt, tan biến. Một người phàm phu, trong viễn cảnh ấy gần như không thể nào không bị chìm đắm trong một sự chấp trước vào thân thể của mình mãnh liệt hơn lúc trước rất nhiều. Càng thấy mình sắp mất nó, mình càng bám chặt vào nó. Sự khát áitham luyến đối với thân thể sẽ làm cho một chủng tử nghiệp trở nên thành thục, đó là nghiệp đưa ta đi tái sinh, vì chính nghiệp này sẽ phóng ta vào một kiếp sống mới trong cõi Ta-bà.

Một người lâm chung sẽ ở trong trạng thái tâm thức nào? Họ thường tự nhủ: "Ta sẽ biến mất! Ta sẽ bị tiêu diệt!" Thật ra, cái sẽ biến mất là thân xác của họ, nhưng họ lại không thấy như thế. Họ sẽ không thể phân tích như thế nếu họ không đã từng miên mật huân tập từ trước. Phản ứng tự nhiên sẽ là "Tôi đang biến mất" chứ chắc chắn không phải là "chỉ có thân thể tôi đang bị hủy diệt chứ không phải tôi".

Người lâm chung tự đồng hóa một cách rất tự nhiên với thân thể, và đó là bởi vì quá chấp chặt vào thân thể của họ. Sự chấp trước vào thân thể của họ mạnh đến nỗi họ thấy mình với nó là một. Họ không thể làm khác hơn được. Đó là những phản xạ tự nhiên. Vào cuối đời, sự đắm trước đối với chính họ sẽ bùng lên một cách tự động, trừ những trường hợp ngoại lệ.

Thật thế, điều gì xảy ra cho những người đã nhờ thiền định mà trực tiếp hiểu được tánh Không, sự vắng mặt của một cái ngã tự hữu và tuyệt đối? Những vị đã chứng đắc điều này được gọi là bậc thánh (arya), nhưng các ngài không có cùng chung một trình độ. Có nhiều cấp bậc khác nhau. Hai cấp bậc đầu bao gồm các vị thánh còn phải sinh vào Dục giới, tức là cõi mà chúng ta đang sống. Thuật ngữ Phật giáo gọi là "nhập lưu" và "nhất lai" (tức là các bậc thánh Thanh văn chỉ còn mỗi một kiếp tái sinh nơi Dục giới).

Mặc dầu thật chứng được tánh Không, nhưng ngay cả những vị này cũng còn nảy lên một niệm chấp ngã trong tâm lúc cận tử. Sự khác biệt với phàm phu – những người chưa chứng được tánh Không – nằm ở chỗ là nhờ ý thức được sự vắng mặt của tự tánh nơi vạn pháp và nhất là nơi con người, các vị thánh này không nhượng bộ tâm chấp trước. Trong tâm họ nảy sinh niệm chấp ngã, nhưng họ không để cho niệm này trói buộc. Họ không bị niệm chấp trước khống chế, vì họ không tin vào nó. Họ hiểu rất rõ rằng những điều hiện ra trong trí họ toàn là những vọng tưởng tai hại, hoàn toàn sai lầm.

Những vị thánh đã đạt đến một trình độ cao hơn, tức là những vị không bao giờ còn phải tái sinh trong Dục giới, đã vượt qua sự chấp trước cho đến mức, dẫu trong phút lâm chung, niệm ấy cũng không còn có thể nảy sinh trong tâm họ.

Như vậy, khi chưa đạt đến trình độ cao của quả vị thánh, chắc chắn là lúc cận tử tâm của chúng ta bị xâm chiếm bởi sự ái luyến bản thân. Một trong các hậu quả là niệm chấp ngã rất mãnh liệt trong tâm người lâm chung. Vì thế mà đức Phật đã khuyên rằng, nếu được thì lúc ấy nên tư duy về tánh Không, và quán "sự vắng mặt" – hiểu theo nghĩa đen – của mọi hiện tượng, tức là [tính chất] "Không, vô tự tánh" của mọi hiện tượng, dẫu chỉ trong khoảnh khắc.

Mục đích là để đối trị tâm chấp ngã, chấp trước vào bản thân, và để hạn chế những tai hại về sau của các tâm ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19529)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18635)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16172)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30007)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25571)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21702)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17886)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20872)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26400)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33427)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52285)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22945)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23467)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39747)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21858)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6907)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69907)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44124)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23180)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35148)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42983)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44523)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24973)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24435)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39313)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39349)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18105)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19322)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35749)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24299)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19676)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20468)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18376)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19100)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19005)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17551)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19389)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30961)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19268)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19642)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19850)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29923)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17887)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19474)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19936)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24465)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23609)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39849)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26777)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40853)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22936)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22996)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21673)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22635)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19277)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20993)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20406)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30613)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20241)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17518)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16658)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16929)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14997)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14899)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22939)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16096)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16268)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15321)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26243)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17266)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15900)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19885)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17773)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14766)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19226)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15221)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33142)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17581)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19215)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21897)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23150)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16706)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16579)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16635)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23100)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26514)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12831)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29631)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27849)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26021)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18526)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant