Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niệm tưởng vô chấp

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9834)
Niệm tưởng vô chấp

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN II. Phù trợ người lâm chung

Niệm tưởng vô chấp

"Vì tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, nên quán viên mãn nhất là quán tâm vô chấp."

Như kinh "11 niệm tưởng phải có" đã nhấn mạnh, tốt hơn hết là không nên có tâm chấp trước đối với bất cứ pháp hữu vi nào, vì tất cả các pháp hữu vi đều vô thường.

Chúng ta đã xác định rằng vạn pháp đều không có tự tánh, và điều này áp dụng cho đối tượng được nhận thức cũng như chủ thể nhận thức.

Tánh Không của mọi pháp như đối tượng nhận thức nói chung đã được đề cập ngay từ phát biểu thứ nhất, và trong câu thứ ba, chúng ta vừa xác định rằng ngay cả chủ thể nhận thức (tâm) cũng rõ ràng là không có tự tánh.

Nhưng mặc dù tất cả các pháp, đối tượng cũng như chủ thể nhận thức, đều không có tự tánh, một kẻ phàm phu nếu không được chỉ dẫn sẽ nhận biết hoàn toàn trái ngược. Ở nơi không có một thực thể nào, phàm phu – ở đây chỉ cho một người chưa hiểu tánh Không – sẽ nắm bắt, vướng chấp là có một tự tánh, một cái gì hiện hữu biệt lập. Để sửa đổi lối nhận thức hoàn toàn sai lầm này, phải làm sao hiểu được tánh Không. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được, ít nhất là trong thời gian đầu. Do đó, phải tìm cách giúp đỡ những ai chưa hiểu được rằng tự tánh không hề có, những ai chưa chứng được tánh Không. Do đó mới có câu phát biểu thứ tư.

Để giúp đỡ những ai chưa hiểu được, nhất là chưa từng nghe đến tánh Không, phương pháp tốt nhất là dẫn dắt họ lưu ý đến bản chất vô thường của các pháp hữu vi.

"Pháp hữu vi" là các pháp do nhân và duyên mà sinh, và theo phân tích thì pháp nào xuất phát từ nhân và duyên cũng đều là vô thường. Như vậy, thấy được bản chất của pháp hữu vivô thường tức là ý thức được rằng không có pháp duyên sinh nào lại có thể ở trong một trạng thái bất biến dù chỉ trong một niệm. Thật ra, trong từng niệm đều có hiện tượng sinh và diệt [liên tục] xảy ra.

Hãy lấy thí dụ một sự vật có mặt ở thời điểm C. Pháp này là kết quả của các nhân và duyên gặp nhau ở thời điểm B, và chính nó có thể làm nhân cho một pháp tiềm tàng khác ở thời điểm D. Nhưng cho dầu ta có quan sát thấy một sự liên tục tiếp diễn giữa các thời điểm C và D, pháp D vẫn không phải là pháp C: có một sự biến đổi đã hiện hành.

Nói cách khác, sự hiện hữu trong thời gian của một pháp vô thường chỉ kéo dài trong một niệm, không hơn không kém, và điều này áp dụng cho tất cả các pháp hữu vi, kể cả các pháp mà chúng ta thấy là hấp dẫn vô cùng.

Ngay cả những đối tượng mà chúng ta gọi là tuyệt diệu hay thù thắng cũng phải tuân theo quy luật tự nhiên này: chúng tacảm giácchúng hiện hữu lâu dài, nhưng đó chỉ thuần túy là một ảo kiến của thị giác, vì trong từng niệm, chúng là một hiện tượng mới vừa được sinh ra để rồi diệt đi ngay sau đó.

Ta có thể kết luận: Đối với một vật phù du dường ấy, khởi tâm chấp trướcích lợi gì?

Nói một cách chính xác hơn, "một niệm" có nghĩa là gì? Trong ngôn ngữ hằng ngày đó là một chữ hơi mơ hồ, nhưng trong ngôn ngữ triết học Phật giáo có nhiều phương pháp để đo lường.

Trong kinh điển thường đề cập đến "khoảnh khắc búng móng tay" để so sánh, nói đúng hơn đó là khoảng thời gian mà một con người, với tất cả các quan năng tâm vật lý lành mạnh, cần có để tri nhận một cái búng móng tay. Một niệm kéo dài bằng 1/65 thời gian một cái búng móng tay. Đó là cách nói thông thường nhất trong Phật giáo. Nhưng các luận bản Đại thừa còn đi xa hơn nữa và xác định rằng một niệm còn ngắn hơn thế nhiều, vì chỉ lâu bằng 1/365 của một cái búng móng tay. Quý vị có lẽ cũng đồng ý với tôi rằng khoảng thời gian như thế thì không lấy gì làm lâu lắm!

Nói như thế rồi, hãy trở lại với đề tài của chúng ta, tức là pháp vô thường nào cũng chỉ kéo dài vỏn vẹn không quá một niệm duy nhất. Và cho dầu niệm ấy có tương đương với 1/65 hay 1/365 của một cái búng móng tay thì cũng là quá ngắn ngủi, chúng ta không cần phải lưu tâm tới sự khác biệt ấy làm gì. Tại sao lại nương dựa vào một cái gì hết sức phù du, bấp bênh như thế? Nếu chúng ta muốn nương dựa vào một cái gì, thì cũng nên chọn một chỗ dựa vững vàng hơn một chút chứ! Nếu chúng ta dựa vào một cái gì phải sụp đổ ngay lập tức, chúng ta sẽ ngã nhào theo ngay. Đó là điều có thể xảy ra cho chúng ta nếu chúng ta cứ muốn luyến chấp vào những hiện tượng chóng tàn. Suy nghĩ đi! Chỉ 1/365 của một cái búng móng tay!

Nói lên tất cả những điều này có ý nghĩa gì? Có nghĩa là bất cứ pháp hữu vi nào bản chất cũng không vững chắc, nghĩa là không thể tin cậy được! Thân thể, của cải sở hữu, cả thanh danh của chúng ta nữa, v.v... cũng đều có cùng bản chất này.

Hãy trở lại lập luận ban nãy. Điểm xuất phát là sự nhận biết rằng cái gì hiện hữu cũng đều là Không: Tất cả mọi hiện tượng đều không có tự tánh hay thực thể. Thế nhưng đại đa số hữu tình, tức là toàn bộ những người phàm phu vẫn chưa hiểu sự vắng mặt của tính chất tuyệt đối nơi mọi sự hữu, nên họ tiếp tục có một lối nhận thức hoàn toàn sai lầm đối với sự vật, hoặc có vẻ như ngược ngạo: Nơi không có tự tánh, phàm phu chấp lấy một cái có tự tánh; họ thấy có thực hữu nơi không có gì chắc chắn; nơi chỉ có hiện tượng vô thường thì họ lại chấp chặt vào những hữu thể mà họ tưởng là vĩnh cửu; và nơi chỉ có đau khổ, họ lại thấy có hạnh phúc. Vì cái chuỗi nhận thức sai lầm đó, phàm phu bị kềm kẹp trong khổ đau. Họ thật sự chịu đựng khổ đau – điều này không thể phủ nhận được.

Việc quan trọng là làm sao giúp họ thoát khỏi khổ đau. Làm thế nào bây giờ? Cách thứ nhất, dễ thực hiện nhất, như đức Phật đã dạy, là làm sao để khi những ai bước vào giây phút cuối của cuộc đời được dẫn dắt phát khởi tâm vô chấp, với căn bản là tánh chất vô thường vốn được chứng nghiệm nơi mọi hữu tình, và phổ quát hơn nữa, nơi tất cả các hiện tượng tạo tác.

Đây là một cách khuyến khích chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn về bốn cái "ấn" của triết học Phật giáo, nhất là hai ấn đầu tiên. Xin nhắc lại cho những ai chưa biết Tứ pháp ấn là gì:

1. Tất cả các hành (pháp hữu vi) đều vô thường.
2. Tất cả các pháp hữu lậu (bất tịnh) đều là khổ.
3. Tất cả các pháp đều vô ngã.
4. Niết Bàntịch tĩnh.

Khi đức Phật khuyên chúng ta nên quán niệm vô chấp, đồng thời Ngài cũng muốn kêu gọi mọi người khơi dậy niệm "buông xả" đối với thế giới Ta-bà. Nhấn mạnh trên bản chất vô thường của các pháp hữu vibản chất khổ đau của các pháp hữu lậu không khác gì miêu tả Khổ diệu đế.

Về chữ "xả", chúng ta gặp một vấn đề về dịch thuật ở đây. Trong tiếng Tây Tạng, chữ này hàm ý chán ghét một điều gì ghê tởm, đến độ chỉ còn có một ý muốn duy nhấtvứt bỏ nó đi. Chữ "xả" ở đây có thích hợp để gợi lên khái niệm này chăng? Có lẽ là không, nhưng chúng ta vẫn giữ nó, vì nó đã quen được dùng.

Đức Phật gợi ý nên phát khởi một tâm niệm buông bỏnhàm chán đến độ buồn nôn – đối với thế giới Ta-bà, cho đến nỗi là bằng mọi giá phải trốn chạy, phải thoát ly ra khỏi cái vòng luân hồi vốn do nghiệp lực và các phiền não tác động. Muốn thế, ta phải suy lường những tai hại của sự luân hồi trong các kiếp sống duyên sinh. Muốn xa lánh một hoàn cảnh nào đó, ta phải thấy những khía cạnh xấu xa của nó. Do đó, một trong các phương pháp để có thể phát khởi tâm buông xảý muốn thoát ly ra khỏi toàn bộ thế giới Ta-bà là suy nghĩ sâu xa hơn về bản chất vô thường của mọi vật - một trong những điều tệ hại nhất của thế giới Ta-bà.

Tốt nhất là nên hành động có hệ thống, đi từ phạm trù này đến phạm trù khác. Vậy thì, đời sống của chúng ta bị vô thường chi phối, cho đến nỗi dưới khía cạnh ấy, đời sống chúng ta chỉ thuần túy hư ảo, bởi vì nó không có thực chất. Cũng thế, thân thể ta không thể tin cậy được vì quá mong manh tạm bợ và cũng không có tự tánh. Hiển nhiên, của cải sở hữu cũng nằm dưới sự vô thường, tức là không có thực thể. Những người thân của ta cũng trong hoàn cảnh đó.Và cuối cùng, toàn bộ thế giới Ta-bà cũng không ra ngoại lệ vì tất cả các hợp thể cũng như các thành phần của hợp thể đó đều không có thực thể tuyệt đối.

Tư duy như thế, cũng như tư duy về lý vô thường, theo ý tôi là đặc biệt thích hợp với các xã hội Âu - Mỹ, vì nơi ấy khái niệm về vô thường rất dễ nhận biết. Nhờ sự tiến bộ của khoa học, khái niệm này đã được chứng minh trong các phòng thí nghiệm đến nỗi không những các chuyên gia đã phải chấp nhậncông chúng cũng đồng ý nữa. Nếu không suy nghĩ đến thì sự thật này không trình hiện rõ ràng trước mắt chúng ta, nhưng chỉ cần chịu để tâm đến, chúng ta có thể quán chứng hiện tượng vô thường một cách dễ dàng.

Ngày xưa, khi chưa có những máy móc kỹ thuật tân tiến như hiện nay, người ta vẫn phải tìm phương tiện để suy tư về vô thường. Ngài A Đề Sa đã tuyên bố rằng để thực hiện được điều đó, nhất là đối với cuộc sống, tốt nhất là hãy ra bờ sông, ngắm dòng nước chảy và tự bảo rằng, cũng y như thế, dòng đời của chúng ta cũng trôi mãi không bao giờ ngừng.

Hiện nay chúng ta không cần phải đi đâu xa. Thường thì ai cũng có nơi cổ tay một món vật có thể đóng vai trò người thầy tuyệt hảo cho mình, vị thầy giỏi nhất của pháp môn vô thường. Tôi muốn nói đến cái đồng hồ đeo tay. Miễn là nó chạy, thì các cây kim của nó di động không ngừng trên mặt kính. Sự di động không ngừng này biểu trưng cho thời gian đang trôi qua. Điều chúng ta cần làm là nối kết sự kiện này với chính chúng ta, thì chúng ta sẽ hiểu rằng cuộc đời của mình cũng đang trôi qua một cách không kém vô tình như thế.

Quý vị có biết ngài Kelsang Gyatso, Đạt-lai Lạt-ma thứ 7 (1708-1757) từng nói gì không? Ngài nói: "Ngay khi chúng ta sinh ra, cuộc sống không thể dừng lại nữa, và chúng ta không ngừng chạy hết tốc lực đến cái chết của mình. Đúng, chúng ta đang sống đó, nhưng như một tên tử tội đang bị lôi đến pháp trường, chúng ta đang trên đường trực chỉ đến cái chết.Thật đáng sầu não lắm thay!"

Tử tội! Quý vị cũng biết là hiện thời rất nhiều tội nhân đang bị xử tử. Suy nghĩ kỹ, đó không phải là sự thật hay sao? Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 7 đã miêu tả tình trạng hiện thời của chúng ta một cách chính xác. Chúng ta đã sinh ra, và ngay sau đó chúng ta bị cuốn hút vào dòng trôi chảy và cả vào cuộc đua với thời gian. Đừng mong rằng mình có thể chặn đứng nó lại, dẫu trong khoảnh khắc. Không có vấn đề tạm nghỉ, không thể có chuyện đó! Sinh ra có nghĩa là bắt đầu chạy, mà còn chạy hết tốc lực nữa, về trạm cuối – cái chết.

Phải, chúng ta nói là chúng ta đang sống. Đúng vậy. Mà những người đang sống là chúng ta đây bị bắt buộc phải bước, đúng hơn là phải chạy trên một con đường dẫn đến cái chết một cách chắc chắn. Thật sự chúng ta giống như những tên tử tội đang bị lôi đến pháp trường.

Quý vị hẳn cũng nhớ trong kinh "Phổ Diệu", đức Phật đã nói y như thế. Vừa mới nhập thai xong, ngay giây phút thứ hai, tất cả chúng sinh đều phải tiến đến tử thành, từng giây từng phút, không có một lúc nào tạm ngừng nghỉ được. Còn gì đúng hơn?

Nhưng phải có sự thụ thai. Tất cả những điều này đều sẽ không thể xảy ra nếu không có sự ra đời. Tôi xin nhắc lại là theo nhãn quan Phật giáo, sự ra đời xảy ra đồng thời với sự thụ thai. Ngay từ giây phút một người ra đời, ngay lập tức, tiến trình [chạy đua] bắt đầu và tiếp tục không ngừng cho đến cái chết, "không một lúc nào tạm ngừng", như đức Phật đã thuyết. Không có chuyện ngừng nghỉ xả hơi trong phút chốc. Sống là một cuộc hành trình đi tới, phút này nối tiếp phút kia, ngày này nối tiếp ngày kia, khởi điểm là lúc sinh ra và điểm kết thúc là cái chết.

Giữa quý vị, chắc hẳn có một vài người đang tự bảo: "Trời đất! Rinpoche đang nói gì kìa? Thầy không ngừng nhắc đi nhắc lại là chúng ta sẽ chết, chết không có lối thoát. Thầy nói gì đâu toàn chuyện dễ sợ, kinh khiếp quá! Ngày lễ cuối tuần nắng đẹp thế này mà thầy làm cho mất vui hết, thật là phí của!"

Tôi không hề có ý định hù dọa quý vị, làm cho quý vị ưu tư lo nghĩ không phải lúc như thế! Vấn đề là nhìn thẳng vào sự thật. Cái chết là một thực tại "được khoa học chứng nghiệm". Quý vị nghĩ sao? Quý vị có nghĩ rằng đây là một sự thật không thể chối cãi hay chúng ta còn có thể đặt nghi vấn? Thật sự, không những đây là một sự thật đã được kiểm chứng mà còn có thể nói thẳng rằng đây là một sự thật quá rõ ràng! Tuy nhiên, dù sự thật đã rành rành trước mắt, nhưng không phải ai cũng muốn thấy. Tuy rõ biết việc này có thật, nhưng có người muốn quay mặt nhìn chỗ khác hay che mắt đi để khỏi thấy.

Theo tôi, đó không phải là một thái độ đúng đắn cho lắm. Nhưng vì ở đây chúng ta đông người, rất có thể có nhiều vị có ý kiến hoàn toàn khác biệt về vấn đề này! Tôi biết thế vì xưa kia tôi có một người bạn đồng nghiệp khi còn dạy ở trường Ngôn ngữVăn Minh Đông Phương (LanguesO). Ông ta tốt nghiệp đại học và là một "khoa học gia chân chính", ông ta tự giới thiệu như thế, thì chắc hẳn là phải đúng. Tóm lại, đó là một người tự xưng giữa công cộng là mình có một lối tiếp cận rất khoa học. Một hôm trong câu chuyện, tôi đề cập đến cái chết và lý vô thường, thì ông bạn đồng nghiệp ấy la toáng lên:

– Đừng bao giờ, đừng bao giờ nói với tôi những chuyện đó, tôi không muốn nghe nhắc đến. Tôi biết là nó có thật, tôi biết là ai cũng có ngày phải chết nhưng tôi không muốn nghĩ đến trước. Không bao giờ!

Từ chối nhìn vào sự thật và không muốn nhắc đến chắc chắn không phải là biện pháp tốt nhất. Gần giống như một người bệnh nặng và đau đớn, lấy thí dụ là bệnh ung thư ở thời kỳ trầm trọng. Hãy tưởng tượng là người ấy đang bị căn bệnh hoành hành rất thống khổ. Người ấy cảm thấy xấu hổ và không muốn nhắc tới nên giữ kín bệnh tình, không dám nói thật cho thân nhân biết. Tại sao? Hơn nữa, càng giấu giếm không lo chữa trị, bệnh càng trầm kha. Chờ lâu không chịu khám bác sĩ thì bệnh càng ngày càng khó chữa, và có thể không còn chữa được nữa cũng nên.

Khi ta có gì lo lắng trên phương diện sức khoẻ, thay vì làm con đà điểu vùi đầu xuống cát để khỏi thấy rồi tự bảo "chuyện gì rồi sau hẵng hay, tôi không muốn nghĩ tới, và càng không muốn nói tới nữa", lo đối trị ngay lập tức không phải là khôn ngoan hơn sao? Chuyện đầu tiên phải làm là gặp bác sĩ để được chẩn bệnh.Và sau khi khám nghiệm, thử máu... và tìm ra bệnh, thì phải tuân hành những phương pháp trị liệu được đề nghị. Phải thử qua tất cả. Với một chút may mắn, có thể thuốc này hay thuốc kia sẽ có công hiệu, nhờ thế hoặc ta lành bệnh hẳn hay được thuyên giảm, và điều ấy rất tốt. Nếu chúng ta ở vào một thời kỳ quá trầm trọng hay vướng phải một căn bệnh nan y, bởi vì chúng ta đã thử làm tất cả những gì cần làm và đã nhìn thẳng vào sự thật, ta sẽ không có gì phải hối tiếc. Lúc đó, ta phải chấp nhận sự thật.

Trong trường hợp đó, một Phật tử nên nghĩ tới luật nhân quả, nghĩa là sự quan hệ giữa nghiệp lựcsự báo ứng. Theo ý tôi, hành động như thế tốt hơnhợp lý hơn.

Trong trường hợp ta là một người thực tế và đã hành động một cách chín chắn, có trí tuệ, thì ta phải biết vì mình là một con người, tức là một pháp hữu vi, và chính vì lẽ đó nên vô thường. Dầu muốn dầu không, bản chất của chúng ta là chỉ có thể sinh và diệt từ niệm này đến niệm khác, nghĩa là chúng ta không thể trụ trong hai niệm liên tiếp một cách bất biến. Chắc chắn có những sự thay đổi diễn ra trong chúng ta, và chúng ta không thể kháng cự lại được. Sự việc diễn tiến một cách máy móc.

Bởi vì mọi sự diễn ra như thế, ta không làm được gì, từ chối không muốn thấy và nhất là từ chối không muốn nghĩ đến sẽ không ích lợi gì cho ta cả. Tốt hơn hết là sự việc ra sao thì hãy thấy nó là như vậy, và tự chuẩn bị cho cái việc mà ta không tránh được ấy. Dầu chúng ta là ai đi nữa cũng nên mở mắt ra và thấy rằng mình nằm dưới sự chi phối của luật vô thường thì tốt hơn. Chính vì thế, nếu chúng ta chấp nhận sự luân hồi – như các Phật tử và nhiều người khác – chúng ta sẽ tự nhủ: "Chắc chắn là tôi sẽ chết. Đó là vì tôi đang chịu luật luân hồi [thô], và cả luật luân hồi [vi tế] đang diễn ra từ sát-na này đến sát-na khác. Nhưng hễ còn sống, tôi sẽ cố gắng tận dụng tối đa thời gian còn lại."

Trạng thái tâm thức đó sẽ cho phép chúng ta thành tựu những việc quan trọng hơn nhiều, tức là đi thẳng vào việc chính yếu thay vì mất thì giờ vào những chuyện vô bổ. Là Phật tử, chúng ta có thể nói: "Trước khi thần chết đến rước, ta phải tu tập thế nào để không còn phải trôi lăn trong sinh tử một cách thụ động nữa mà trái lại đạt được giải thoát. Lý tưởng nhất là đạt được một sự tự do hoàn toàn đối với vấn đề luân hồi. Nhưng dầu cho không làm chủ được tình thế, ít nhất ta phải làm sao sử dụng phần đời còn lại để sau khi chết nắm chắc phần thắng mà hướng đến một cõi tái sinh tốt, thuận lợi cho ta tiếp tục nỗ lực tiến đến mục đích."

Nếu chúng ta không chấp nhận thuyết luân hồi, và tin tưởng rằng chỉ vỏn vẹn có một đời sống độc nhất tức là cuộc sống này đây, thì chúng ta vẫn có lợi lạc nếu ý thức được bản chất vô thường của mình, để có thể lợi dụng tối đa cuộc sống hiện tại. Bằng cách đó, đến giờ phút cuối cùng, chúng ta sẽ không còn gì để hối tiếc và có thể tự nhủ rằng: "Ta đã hoàn thành những gì mà ta muốn làm nhất" hay là "Ta đã chu toàn bổn phận", hoặc kết luận rằng "Ta đã làm hết sức của mình, ta không hối tiếc gì nữa".




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19530)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18636)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16173)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 30010)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25574)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21709)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17887)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20873)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26401)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33430)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52288)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22946)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23468)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39752)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21858)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22473)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6907)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22783)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69909)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44127)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23183)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35150)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42984)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44525)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24975)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24435)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39315)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39352)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17311)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18106)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19324)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35750)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24300)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19680)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20469)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18377)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19102)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19006)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17552)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19389)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30964)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19270)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20590)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19644)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19851)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29924)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17889)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19474)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19938)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58881)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24465)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23609)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39850)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26779)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40853)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22937)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22997)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21674)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18700)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22636)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21123)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19279)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20994)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20407)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30613)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20243)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17519)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16658)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16929)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14997)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14903)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22940)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16096)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16269)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15324)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26244)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17273)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15902)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19885)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17774)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14768)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14816)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19226)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15221)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33146)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17583)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19217)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21900)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23151)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16707)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16583)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16637)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23102)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26514)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12835)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29633)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27851)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26022)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18527)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant