Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10430)
Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VII
Nêu Ra Nghi Để Trừ Nghi

Hỏi: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích nêu ra thuyết Biệt thời ý, há chẳng phải là phá trừ nghi sao?

Đáp: Luận kia trình bày có Biệt thời và chẳng phải Biệt thời. Nếu chỉ phát nguyện thì đó là Biệt thời. Nếu hạnh nguyện gồm tu thì chẳng phải Biệt thời.

Như Bồ-tát Thiên Thân phán định hạnh mười niệm là Biệt thời ý, vì sao lại tạo ra bộ luận Vãng Sinh để khuyên người vãng sinh? Lại nữa, nguyên nhân phát khởi giáo lý Quán Kinh là do bà Vi-đề-hy sinh ra nghịch tử là Vương tử A-xà-thế, nhân đó mà bà nhàm chán cõi Ngũ trược, nguyện sinh về cõi Cực Lạc. Đức Phật liền giảng ba phước nghiệp[1] và 16 quán môn cho bà nghe, đồng thời khuyên chúng sinh vãng sinh, cho đến những người tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác cũng được khuyên vãng sinh. Bà Vi-đề-hy là người thỉnh Đức Phật giảng về Tịnh độ, thân ở trong Ngũ trược mà lại sinh nghịch tử, Đức Phật cho rằng đều được vãng sinh. Ngay đó mà biết phàm phu hiện ở trong cõi Ngũ trược, nhưng vẫn được vãng sinh.

*

Hỏi: Vi-đề-hy là vị Bồ-tát, vì độ chúng sinh, nên hiện thân người nữ, nhưng lại sinh người con nghịch tử, lẽ nào thật là phàm phu ư?

Đáp: Giả sử thật là Bồ-tát thị hiện, thọ thân người nữ giáo hóa chúng sinh, ắt phải ẩn giấu năng lực thật có của mình, biểu hiện đồng với phàm phu, để nhiếp hóa đồng loại. Tức hiện đồng với phàm phu, thân ở trong cõi Ngũ trược, thường biết rõ những thống khổ của họ để dẫn dắt vãng sinh Cực Lạc.

Nhiếp Luận chép: “Vì chỉ phát nguyện là Biệt thời, cho nên biết tu Ba phước nghiệp, Mười sáu quán môn, bảy ngày niệm Phật đâu phải là Biệt thời”.

Hỏi: Như luận Vãng Sinh nói: “Người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Tại sao ở đây lại nói cả ba hạng người đó đều được vãng sinh?

Đáp: Theo lý thì thật đúng như vậy, nếu không có chủng (hạt giống) thì nhất định không được vãng sinh. Nói chánh chủng: Là ở trong cõi này, hoặc có chủng tánh người nam hay chủng tánh người nữ, nếu có nhân người nữ thì nhất định chiêu cảm nữ căn, người này giả sửtu tập hạnh Tịnh độ cũng không được vãng sinh. Vì trong Tịnh độ không có người nữ. Đây là định nghiệp, chính là nghiệp chướng, không thể gắng được. Hạng người thiếu căn như đui, điếc v.v… cũng như thế. Nếu có ăn năn, trừ bỏ thì không sinh vào những hạng người đó. Hàng Nhị thừa do gieo nhân Nhị thừa, không tin Đại thừaTịnh độ trong mười phương nên cũng không được vãng sinh. Từ “Chủng” được trình bày trong luận chính là Định nghiệp chủng.

Hỏi: Nếu như thế, tại sao Quán Kinh lại nói: “Thọ trì ngũ giới thì được vãng sinh, nghe giảng về Tứ đế thì chứng được quả A-la-hán v.v…”?

Đáp: Theo luận Trí Độ, đây chẳng phải là hạng Ngu pháp[2]. Họ tin có chư Phật trong mười phương và có Tịnh độ để phát nguyện vãng sinh, nếu chứng quả A-la-hán rồi thì Phật sẽ giảng kinh Pháp Hoa cho họ nghe, đồng thời khuyên họ phát tâm hồi hướng về Đại thừa.

Hỏi: Chúng sinh nghiệp ác rất nặng, chướng ngại Tịnh độ, một chút thiện nhỏ thì không thể trừ được ác nghiệp. Vì sao trong Quán Kinh lại nói: “Khi lâm chung niệm mười niệm thì được vãng sinh?”.

Đáp: Tâm là chủ của nghiệp, là nguồn gốc để thọ sinh. Lúc lâm chung, tâm giống như con mắt, có thể dẫn dắt tất cả nghiệp. Nếu lúc lâm chung, tâm nghĩ ác thì dẫn dắt các nghiệp ác, nếu tâm nghĩ thiện thì dẫn dắt các nghiệp thiện. Giống như rồng đi đến đâu thì mây tụ tập theo đến đó. Nếu tâm hướng về Tây Phương thì nghiệp cũng theo tâm đến đó.

*

Hỏi: Trong kinh Di-lặc Sở Vấn, khi luận về mười niệm có ghi: “Chẳng phải niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử”. Ở đây, hết thảy chúng sinh đều là phàm phu, kết sử chưa đoạn trừ thì làm sao niệm Phật mà được vãng sinh?

Đáp: Như kinh kia nói thì chỉ có mình Phật được vãng sinh, chúng sinh khác không được vãng sinh, vì hàng Bồ-tát Thập địa tâm sau cùng vẫn có hai loại vô minh. Ở đây giải thích rằng: Niệm phàm phu, là nếu người không phát tâm Bồ-đề, mong cầu ra khỏi ba cõi để thành Phật mà chỉ niệm Phật cầu vãng sinh, như thế thì đó chính là niệm phàm phu, người đó hoàn toàn không được vãng sinh. Do đó, cần phải phát tâm Bồ-đề. Chẳng xen niệm kết sử, tức là chỉ cần nhất tâm liên tục, quán tướng hảo của Phật, nếu miệng niệm Phậttâm duyên theo năm dục thì đó là xen niệm kết sử. Niệm Phật là tâm phải thuần tịnh, ngược lại với kết sử.

*

Hỏi: Chúng sinh chứa nghiệp ác nhiều như núi, làm sao mười niệm có thể diệt trừ được? Giả sử có biến ra trăm ngàn vạn cũng còn rất ít, nếu như không trừ sạch nghiệp ác thì làm sao được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Có ba nghĩa:

1. Nếu người lúc lâm chungchánh niệm hiện tiền, thì tâm ấy có thể dẫn dắt nghiệp thiện được tạo ra từ vô thỉ, cho đến nghiệp thiện ngay trong đời này đồng thời tương trợ liền được vãng sinh.

2. Danh hiệu của chư Phật đều được thành tựu từ muôn vạn công đức, cho nên nếu người chỉ có thể niệm được một niệm danh hiệu Phật thì ngay trong niệm đã niệm muôn vạn công đức, thì diệt được tội nghiệp. Nghiệp ác làm ngăn ngại việc vãng sinh, nay nghiệp ác đã được trừ diệt rồi thì còn quan hệ gì nữa? Cho nên trong phần Hạ phẩm vãng sinh có nói: “Do nhờ niệm danh hiệu Phật mà trong mỗi mỗi niệm trừ được tội lỗi sinh tử trong 80 ức kiếp”.

3. Nghiệp ác từ vô thỉ đều do vọng tâm sinh khởi, công đức niệm Phật từ Chân tâm sinh khởi. Chân tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối, chân tâm hiện khởi thì vọng tâm liền tiêu trừ, như mặt trời vừa xuất hiện thì bóng tối liền tiêu tan. Do ba nghĩa này, nên nói người nào lúc lâm chungthành tựu mười niệm thì nhất định được vãng sinh!

*

Hỏi: Tịnh độ thù thắng vi diệu, là Liên Hoa Bảo Tạng, chỗ cư ngụ của đấng Pháp vương, chẳng phải là chỗ của phàm phu tu hành. Đúng ra phàm phu thì tu hành ở đất phàm phu, bậc Thánh thì giáo hóađạo tràng của bậc Thánh, lẽ nào hạng phàm phu thấp kém mà lại được sinh vào chỗ vi diệu này?

Đáp: Hễ là hạng phàm phu thì không được dạo chơi nơi cõi thanh tịnh, đã là đấng Pháp vương sao lại đi vào cõi Ngũ trược. Mặc dù là đấng Pháp vương, nhưng vì muốn giáo hóa chúng sinh nên đi vào cõi Ngũ trược? Mặc dù là phàm phu, vì muốn cúng dường chư Phật mà sinh vào cõi thanh tịnh. Lại nữa, Đức Phật A-di-đà phát 48 lời nguyện lớn, trước hết là vì tất cả hàng phàm phu, sau đó thêm bậc Thánh của Tam thừa, cho nên biết tông chỉ của Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, còn bậc Thánh chỉ là phụ. Lại nữa, hàng Bồ-tát Thập giải trở lên, không lo sợ sinh vào đường ác, cho nên có thể không nguyện sinh về Tịnh độ. Do đó biết tông chỉ sâu xa của pháp môn Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, chẳng phải cho hàng Bồ-tát.

*

Hỏi: Gặp được thiện duyên, dự vào chín phẩm, thường xem văn nghĩa, lìa bỏ được tâm sân. Nếu như có những người ác, không biết tu thiện, sau khi chết bị rơi vào ba đường ác, thì có thể dùng phương tiện cứu vong linh, trừ nghiệp chướng để sinh về Cực Lạc được không?

Đáp: Chúng sinh ngu si khó thông đạt, thì Thánh giáo có diệu thuật cứu giúp. Cho nên phẩm Quán Đảnh Chân Ngôn Thành Tựu, kinh Bất Không Quyên Tác Thần Biến Chân Ngôn, quyển 28 chép: “Bấy giờ, các cõi nước trong mười phương, tất cả Như Lai trong ba đời và đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng lúc duỗi cánh tay vô úy bên phải, xoa đảnh vua Thanh Tịnh Liên Hoa Minh, đồng thời cùng thuyết Bất Không Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn rằng:

“Án a mộ già giáp oa phế lỗ giả nã ma ha mẫu nại la ma nĩ bát đầu ma nhập phược la bả la miệt đả dã hồng”.

Nếu có chúng sinh nào ở bất cứ nơi đâu mà nghe được Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn này từ hai, ba cho đến bảy biến thì liền trừ diệt được tất cả tội chướng. Nếu có chúng sinh nào gây ra các thứ tội Thập ác, Ngũ nghịch, Tứ trọng nhiều như cát bụi, đầy khắp thế giới này, đến khi thân hoại mạng chung, bị rơi vào đường ác, nên đem chân ngôn này gia trì vào trong cát sỏi 108 biến, rồi vào trong Thi-đà lâm[3], rải trên hài cốt của người chết, hoặc rải trên mộ. Những vong linh ấy hoặc đã bị đọa trong địa ngục, trong ngạ quỷ, trong A-tu-la hay trong bàng sinh, nhưng nhờ bổn nguyện chân thật của Nhất Thiết Bất Không Như Lai, và Bất Không Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng với sức gia trì của thần chú Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn trong cát, tức thời liền được ánh hào quang chiếu đến thân, nhân đó trừ được các tội báo, bỏ được thân thống khổ, sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc, hóa sinh trong hoa sen, cho đến khi chứng được Bồ-đề, vĩnh viễn không bị đọa lạc. Các kinh văn như thế phổ biến khắp nơi.

Tiếc thay! Nghiệp ác tự mình tạo thì chiêu cảm quả khổ như bóng theo hình. Xót thay! Nguy khốn chỉ mình ta, không có ai cứu giúp. Nếu chẳng có tâm đồng thể đại bi[4], bí thuật hoằng tế thì sao có thể từ xa mà mở cửa u đồ, để được lên đài sen. Tuy không có lý người khác làm mà ta thọ nhận, nhưng có sức duyên khởi không thể nghĩ bàn. Thế mới biết nhờ gặp cát đã được gia trì thần chú, tức là có duyên, nếu không gặp được cát sỏi đó, đâu thể có thể nói đến kỳ hạn giải thoát.

Sức đại bi cùng khắp, lời chân thật chẳng hư dối mà không tin nhận, không thực hành thì về sau ăn năn không kịp! Thế thì, người không tin nhận, luống phụ ân sâu dày, ngày báo đáp càng xa vời. Người tin nhận thực hành theo, tiếp dẫn hồn về hoa sen, hạnh hiếu thuận được lập, may gặp được chân ngôn, khiến dễ dàng giải thoát. Phàm trăm người quân tử, không ai mà không phụng hành. Việc rải cát trên mộ mà còn vượt qua ba cõi, huống gì thân được mặc áo gia trì thần chú, tai được nghe tiếng tụng chú!

Xuân Bính Tuất, PL. 2550 (2006)

Thích Giác Chính cẩn dịch
(Tu vien Hue Quang)

 
Giải thích pháp số:

[1] Ba Phước Nghiệp (Tam chủng tịnh phước, Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân Tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập 10 nghiệp lành.

2. Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4079).

[2] Ngu pháp: hàng Tiểu thừa Ngu pháp và hàng Tiểu thừa Bất ngu pháp.

Tiểu thừa Ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác ngu về lý pháp không của Đại thừa. Vì hàng Nhị thừa này chỉ chứng sinh không, chấp chặt pháp có, không biết về chân lý Nhị không của Đại thừa, nên bị chê là Ngu pháp.

Tiểu thừa bất ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác vừa chứng được lý Tiểu thừa, vừa hiểu được lý Đại thừa. Tuy cùng là Tiểu thừa nhưng tâm hiểu biết có hơn kém khác nhau. Do họ có thể hồi chuyển tâm Tiểu thừa hướng về Đại thừa, nên còn gọi là Hồi tâm Tiểu thừa (Nhị thừa hồi tâm). Trong năm phán giáo của đại sư Hiền Thủ, hạng này được xếp vào Đại thừa Thỉ giáo (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2907).

[3] Thi-đà lâm: theo Huyền ứng âm nghĩa, q.7, “Thi-đà lâm, gọi đủ là Thi-đa-bà-na, có nghĩa là Hàn lâm (rừng lạnh). Rừng này sâu thẳm lạnh lẽo, nhân đó mà có tên Hàn lâm. Rừng này ở cạnh thành Vương-xá, người chết phần nhiều được đưa tới đây. Nay Thi-đà lâm là từ dùng để chỉ chung chỗ bỏ xác người chết”. Còn gọi là Khủng úy lâm (rừng sợ hãi) (TĐPH Hán-Việt, PVNCPHVN, Nxb Hà Nội, 1994, t. II, tr. 1492).

[4] Đồng thể đại bi: quán chúng sinh với mình đồng một thể mà khởi bi tâm bình đẳng để cứu khổ, ban vui. Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, xem nỗi khổ của chúng sinh như nỗi khổ của chính mình mà sinh lòng xót thương vô hạn. Kinh Đại Bát Niết-bàn, q. 16, bản Bắc ghi: “Như cha mẹ thấy con bệnh hoạn, sinh lòng khổ não, xót thương lo buồn, từng giây từng phút. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, thấy chúng sinh bị phiền não trói buộc, các Ngài buồn khổ, lo nghĩ như mẹ thương con đỏ, đến nỗi các lỗ chân lông đều ra máu” (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1598).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6203)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7268)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6787)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6214)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5701)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4967)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5384)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6697)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5992)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12068)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5768)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7071)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5528)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5919)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4940)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4481)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8264)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6565)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7439)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5858)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5511)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6449)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6786)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7593)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4910)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4668)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5298)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12721)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9791)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10539)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10387)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9992)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12068)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10219)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10858)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9983)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8855)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9560)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14611)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8847)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9170)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9396)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8866)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10590)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9286)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8425)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9480)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9048)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9639)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9060)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8420)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9005)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9041)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8819)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9426)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9097)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8848)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4120)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9102)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9955)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant