Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Qui chế thiền đườngquy tắc tọa thiền

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12003)
7. Qui chế thiền đường và quy tắc tọa thiền

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7:
Chứng nghĩa
Phần sau

2. Chương 7: Phần sau - Đại chúng

 
2.7 Qui chế thiền đườngquy tắc tọa thiền.
(xem chương 8: mục tiết lạp ở dưới)

Qui chế tịnh nghiệp đường có 16 điều như dưới đây:

Luận biển sanh tử khôn dò, nếu không niệm Phật làm sao vượt qua được. Đạo Bồ Đề cao vợi, nếu khôngcõi Tịnh độ làm sao nương tựa được. Nay đại chúng cùng thấu rõ chỉ chuyên niệm hồng danh 6 chữ lập nguyện cùng nhau, nỗ lực nhất tâm bất loạn; chỉ sợ thời gian lâu, đi xa dễ sanh lười biếng, sự thật mất còn danh, lao lực lập thành không gia tâm sách tấn; không lấy gì ràng buộc thân tâm; hẳn phải có chương điều mới mong chỉnh đốn ta - người. May được cùng giữ qui tắc mà nhắc khuyên nhau, không tranh ngã tranh nhân để cho tịnh nghiệp chóng thành. Đài sen sớm nỡ thấy Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương. Thân này chứng tam muội được như thế thời ước nguyện không mất. Xin được nêu ra 95 quy ước sau đây: 

1- Thời khóa hằng ngày 10 giờ niệm Phật; đến 9 giờ (tối) quán tưởng (tham thiền) và một thời lạy sám hối. Dù đông lạnh, hạ oi cũng không được lơ là.

2- Mỗi nửa tháng có trăng và không trăng, tụng luật Tứ Phần giới bổn; tụng gọn ít là kinh Phạm Võng. Quỳ gối chấp tay đọc lời phát nguyệnhồi hướng sanh Tây Phương.

3- Gặp Khánh Đản Phật A Di ĐàQuan Âm, Thế Chí thành tâm thiết lễ tưởng niệm 

4- Mỗi năm hai tháng, tháng giêng, tháng hai đều có 2 kỳ niệm Phật để cầu nguyện vạn vật đổi mới, trời đất canh tân; nhằm nói lên ý nghĩa mạng người vô thường, ngày tháng luống qua.

5- Mỗi ngày lúc chiều nên cúng xuất sanh thí thực. Đọc chú Biến Thực chân ngôn 49 lần, niệm hiệu Phật 1000 lần để giúp đỡ quỉ thần

6- Mỗi ngày niệm Phật, thọ trai (dùng bửa) đều đắp y

7- Nên cấm chỉ rong chơi không được ra ngoài xem ngóng, lên phố nhàn du. Trừ phi đi thăm bịnh cha mẹ, sư trưởng, có thể tạm thời xin phép, ngoài ra đều không được.

8- Xin phép ra ngoài nên có ngày giờ nhất định. Nếu quá hạn không về, phạt quỳ hương

9- Nên miễn nghinh đón khách quí tiếp đãi đàm đạo ít lời vì thì giờ qua nhanh. Nếu gặp nhân duyên hỏi Phật pháp, không nêu ở phần này 

10- Nên che dấu việc tạp. Phàm Kinh sách, giấy mực, thi, kệ, chữ viết… tất cả để chỗ cao, không được hời hợt xem thường

11- Không nên trả lời ngoài kinh tạng. Giả như người đến tự viện cũng không hẹn ngay. Dù trả lời không được, chỉ cần tụng kinh A Di Đà, lạy sám Tịnh Độ, niệm Phật mà thôi.

12- Trong chùa, trừ niệm Phật ra, tất cả không nên nói tạp. Giả sử có việc cần hỏi đáp cũng nên nhỏ nhẹ 

13- Niệm Phật bị hôn trầm dùng cờ hiệu nhỏ đi tuần để nhắc nhở tĩnh táo lại; cờ hiệu tới không đứng lên bị phạt

14- Có lỗi không sám hối, can ngăn không trừ, phạt quỳ hương. Phát tức nổi xung gây gỗ đôi bên đều bị phạt. Một người nhẫn, một người sân, người sân bị phạt 

15- Phàm có lỗi nên cùng khuyên nhau theo Nội Quy, khiến người kia lập tức sám hối ngay. Không được để cách ngày, đêm

16- Vô cớ xông vào phòng, tụ lại bàn chuyện nhãm bị phạt quỳ hương. Không phải có việc quan trọng, giờ chỉ tịnh (ngủ) không về chùa phạt hương.

Những điều quy định trên nếu phạm, Duyệt chúng phải nêu ra. Đưa ra nhưng đương sự bất tuân là đuổi. Biết mà không đưa ra, cả 2 cùng bị phạt quỳ.

Ngày…tháng… năm

Trụ trì… cẩn ghi.

-Chứng nghĩa ghi rằng, tông Tịnh Độ thành lậpĐông Độ bắt đầu từ Ngài Lô Sơn Huệ Viễn. Ngài khuyên người bỏ cõi Ta Bà, cầu sanh về Tịnh Độ. Giáo thuyết ấy lấy kim ngân làm vật ô nhiễm của tâm; lấy tước lộc làm cái khổ hoạn của thân, lấy nữ sắc chiếc búa chặt mạng sống, lấy ăn ngon mặc sang, nhà cao cửa rộng làm hố hầm đọa lạc của ba cõi. Chỉ mong thoát khỏi thân người sanh lên 9 phẩm sen, được thanh tịnh mà dứt hết bẩn nhơ. Nên Ngài quy tụ các nhà trí thức, 18 vị hiền tài khắc hoa sen, 6 thời lễ tụng, tinh thần khẩn thiết lúc lâm chung (chết) mỗi người được như sở nguyện. Từ đó về sau lời dạy ấy được tôn trọng. Người tu tịnh nghiệp sanh về nước Cực Lạc thay thế nhiều người. Song trong đó có danh mà không thật. Tới mạt Đường người chuyên tâm niệm Phật cũng không phải là ít. Cho tới ngày nay lòng người đã tệ bạc, tội lỗi ngày càng phát sanh. Tụ tập nhiều người mạo danh là Liên Xã, dối cầu ăn mặc hay giữa nam nữ có phần phức tạp; sanh nhiều tệ đoan thường hay xảy ra. Cho nên người trong Liên Xã thà ít không nên kết nạp nhiều; cho chí việc nam nữ lộn xộn trong cùng tổ chức. Việc như thế xưa kia chưa từng có; người nữ thường nên phải ở nhà niệm Phật chớ xen lẫn giữa đàn ông. Tránh tiếng đời gièm pha để hộ trì chánh pháp không thể xem thường. Dựa theo Tư Tề đại sư trong sách Nghiệp Đường Minh ghi rằng, nhà gọi là tịnh nghiệp, chỉ nghĩa là gì; chỉ là duy nhất tinh chuyên niệm Phật Di Đà. Tâm chưa được thuần nhất, nghiệp hẳn là bất tịnh, chỉ mê cùng tán loạn sống ắt nhóm bịnh. Bọn người như vậy ra khỏi nơi đây nên hợp thời kiểm soát, hoặc cần chăm hoặc biếng lười. Lười thời phát gắt gõng, cần chăm nên tiến bộ. Nỗ lực một đời quyết gặp Phật A Di Đà. Ngoài ra ở chùa Tư Phước thuộc Hồng Lũy Sơn tại Bắc Kinh có Triệt Ngộ thiền sư nói rằng “Tâm hay tạo nghiệp, Nghiệp do tâm tạo, nghiệp tùy tâm chuyển. Tâm không thể chuyển nghiệp tức bị nghiệp buộc, nghiệp không tùy tâm chuyển tức là tâm năng buộc”.Tâm có thể chuyển nghiệp, tâm hợp với đạo, tâm hợp cùng Phật tức là hay chuyển nghiệp. Nghiệp chuyển tâm buộc, tâm nương thường phận xoay vần tạo ra thọ, tức là nghiệp buộc mọi cảnh giới hiện hữu hết thảy quả báo đời sau đều chỉ do nghiệp mê lầm. Duy tâm hiện ra, chỉ nghiệp cảm nên, cho nên cảnh trước mắt, quả báo đời sau đều có nhứt định. Do nghiệp hay buộc tâm chỉ tâm mới hiện khởi. Cảnh hiện báo về sau đều không nhứt định. Do tâm hay chuyển nghiệp, nên nếu người đang tạo đúng hay buộc tâm, cảnh hiện hữu về sau nhứt định đưa tới quả báo mà liền phát tâm quảng đại tu hạnh chân thật. Tâm cùng Phật hợp, tâm hợp với đạo tâm hay chuyển nghiệp. Tiền cảnh, báo về sau định nhưng bất định. Lại tâm hay chuyển nghiệp, tiền cảnh hậu báo khi bất định, nhưng đại tâm bổng lui sụt, việc tu tập kém khuyết nên nghiệp hay buộc tâm, tức là tiền cảnh, hậu báo bất định mà định. Nhưng nghiệp sẵn tạo đã qua không thể nại cớ cho là may mắn phát tâm nhưng cơ duyên do ta tạo nghiệp, chuyển nghiệp mà không do người khác. Như ta phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc hay quán sát y chánh báo hoặc niệm danh hiệu, niệm niệm tương tục nối luôn không dứt thời tâm và Phật hợp, hợp rồi lại hợp; hợp đến chỗ chí cực tức tâm hay chuyển nghiệp mà tiền cảnh của Ta Bà chuyển thành Cực Lạc. Đầu thai quả báo địa ngục chuyển làm bào thai hoa sen thành người tự tại an lạc cõi Lạc Bang. Nếu ngay lúc tâm nghĩ gì, tâm hoặc ngẫu nhiên mất thăng bằng hoặc bỗng sanh lui sụt không hiệp cùng Phật thời nghiệp hay buộc tâm mà tiền cảnh vẫn lưu báo về sau, vẫn đương nhiên trở lại thọ khổ của chúng sanh. Song ta có chí thoát khỏi cầu sanh Tịnh Độ có thể thản nhiêncảnh giác, phấn chí mà phát tâm.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 32003)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35180)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 43971)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 53221)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 25005)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24918)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21982)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 21217)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 28039)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25692)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14140)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 8657)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 30676)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 38134)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20193)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 15590)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 38793)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 13371)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17628)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 12451)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13865)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13046)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12944)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14223)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 21141)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 13918)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 17116)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12689)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30792)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 14717)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13108)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 20348)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant