Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8082)
05. “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 1

 KRISHNAMURTI THỜI TRẺ TUỔI

1895 - 1946

CHƯƠNG 5

 “Ở đây, sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt.”

M

ột nhóm bạn bè thân thiết của anh theo cùng Krishna đến Pergine ở Ý. Lady Emily, cùng hai cô con gái Betty và Mary, cũng có mặt; cũng cả Helen Knothe, một phụ nữ trẻ người Mỹ và một trong những người bạn thân của Krishnaji; Dr. Shivakamu, chị của Rukmini Arundale; Malti; vợ của Patwardhan; một người bạn thân khác của K, Ruth, John Cordes, người đại diện ở Áo của Star, đã ở Adyar năm 1911 và 1912 và lúc đó chịu trách nhiệm cho đào tạo, sức khoẻ, và những bài tập thể dục của Krishna. Rama Rao và Jadunandan Prasad, những người đồng hợp tác thân thiết của K ở Ấn độ, Và D. Rajagopal cũng trong nhóm. Câu chuyện không được biết đến này của K ở Pergine được tìm thấy trong số những giấy tờ của Shiva Rao sau khi anh chết. Mặc dù sự nhận dạng của tác giả không biết được, tài liệu có vẻ trung thực.

 

______________

 

Ngày 29 tháng tám năm 1924:

 

 Ở đây sống của chúng tôi là một sống của hoạt động nội tâm mãnh liệt và hầu như hoàn toàn theo quán tính ở phía bên ngoài. Hay đó là việc gì nó nên là và việc gì Krishnaji mong muốn.

Vào những kỳ nghỉ trước thuộc loại này, khi Krishna đã tụ họp quanh anh những người anh mong muốn giảng dạy và giúp đỡ và đã lui về một nơi yên tĩnh nào đó xa khỏi nền văn minh, đã không có một kế hoạch sắp đặt sẵn của hành động. Dĩ nhiên, Krishnaji đã nói chuyện cá nhân với mỗi người đi theo, nhưng trước đó chưa bao giờ những Bậc Thầy đã nói chuyện với tất cả tập thể chúng tôi cùng một lúc, như trong nhóm hiện nay của chúng tôi, để cho mỗi thứ bậc và những người vẫn còn tách rời có lẽ lắng nghe và nói chuyện cởi mở về họ.

Chúng tôi hiện diện ở đây chỉ vì một mục đích, thực hiện “những bước” rõ rệt và qua đó trở nên hữu dụng một cách trực tiếp đối với Họ. Mỗi người có cơ hội của anh ấy, mỗi người tại một chặng đường khác nhau, và vì vậy có thể phục vụ những người ở trên và giúp đỡ những người ở dưới. (Những thuật ngữ như ở trên hay ở dưới có lẽ dẫn đến sự hiểu sai, tôi sử dụng chúng không hàm ý một người cao hơn hay thấp hơn, nhưng chỉ là một phân biệt.)

Thời khóa biểu cho một ngày là, tham thiền vào lúc tám giờ mười lăm, ăn sáng tám giờ ba mươi. Một chuyến dạo bộ xuống một cánh đồng lởm chởm mênh mông nơi chúng tôi chơi rounders khoảng một hay hai tiếng, và sau đó nói chuyện một tiếng dưới những cái cây, về những Bậc Thầy và về làm thế nào để phục vụ Họ. Ăn trưa lúc 12:30 – nghỉ ngơi hay công việc cá nhân, nếu muốn, cho đến ba giờ; những trò chơi trong sân của Castle, tắm và ăn tối lúc sáu giờ. Sau đó tất cả chia tay để nghỉ đêm, vài người chúng tôi đi đến tháp Square nơi sự chuẩn bị chuyên sâu tiếp tục một tiếng đồng hồ. Ngủ 8:30.

Dĩ nhiên, Krishnaji là nhân vật trung tâm của mỗi ngày; của trò chơi, và của công việc. Quanh anh mọi thứ [được] tập trung; sống của Krishnaji là một sống của sự hiến dâng tuyệt đối cho Chúa, sự tôn sùng thật đam mê của lý tưởng và vẻ đẹp – và tuy nhiên anh là con người quá hoàn hảo và rất gần gũi với bạn bè. Không từ ngữ nào có thể mô tả nhân cách của anh, nhưng dường như anh giống như một con người đã tự hoàn chỉnh chính mình đến một mức độ tuyệt vời, hơn là một hiện diện thiêng liêng trong một hình dạng con người không hoàn hảo. Chắc chắn điều gì Chúa sẽ ao ước, sẽ là một công cụ con người hoàn hảo, để cho Ngài có thể tiếp xúc với nhân loại trên mức độ riêng của nó. Sự thiêng liêng mà Chính Ngài sẽ thể hiện qua công cụ. Ngoại trừ sự hiện thân của Thầy Thế giới đến thế giới của Thầy, không bao giờ có một hiệp thông giữa những thứ Thiêng liêng và những thứ mà là con người. Bởi vì thông thường con người vươn lên Thiêng liêng và khoảnh khắc nó tiếp xúc được nó trở thành một cùng Thiêng liêng, nhưng trong trường hợp này Thiêng liêng hạ xuống một công cụ con người, sử dụng nó, làm việc qua nó như chính nó tự tạo thành một đơn vị và tách khỏi nó, và lui về lại để cho công cụ vẫn còn là một công cụ con người. Chắc chắn sự tiến hóa của một công cụ con người thường quá mau lẹ đến độ hầu như tức khắc nó trở thành siêu nhân (qua sự phục vụ này) nhưng đây là một qui trình tách rời. Con người có lẽ vươn lên và trở thành Thiêng liêng nhưng anh ấy không thể sử dụng những quyền năng của Thiêng liêng trong khi anh ấy vẫn còn là con người. Trái lại, Thiêng liêng có thể hạ xuống và sử dụng những quyền năng của con người, mặc dù anh ấy không còn là con người nữa.

Hôm nay, tại bữa ăn sáng Krishnaji rất sinh động, và như thường lệ nói chuyện của chúng tôi không thể in ra được. Sáng hôm sau, một nói chuyện rất nghiêm túc hay một công việc gian nan của buổi chiều, Krishnaji sẽ thường xuyên bông lông nhiều, nói những chuyện đùa và cười cợt chúng rất náo động, cùng những bột phát đột ngột vang to của tiếng cười ngặt nghẽo, hay tiếng cười khúc khích kéo dài, lan truyền qua những người khác. Hai điều lạ lùng về anh – thứ nhất, khả năng của anh để thay đổi từ một tâm trạng nghiêm túc, thực sự và vinh quang nhất, thành một tâm trạng giỡn cợt và đùa bỡn [,] tức khắc; thứ hai, không câu chuyện đùa dù thô thiển đến chừng nào mà anh thốt ra, khiến cho bầu không khí thông thường có thể góp phần vào câu chuyện đó. Có vẻ như thể vẻ đẹp của anh, sự rõ ràng tuyệt đối của hiện diện của anh, quét sạch mọi thứ trước mặt nó, đến độ anh có thể tiếp xúc bất kỳ người nào, hay vật nào hay chủ đề nào, và chuyển tải sự hồn nhiên của anh vào nó, trao tặng nó không khí trong lành bởi sự hiện diện của anh. Krishnaji cố gắng nhớ lại những trải nghiệm riêng của anh. Khi lần đầu tiên anh và Nitya gặp C. W. L., anh đưa cho họ xem những bức tranh của Thầy M. và Thầy K. H. và hỏi họ Thầy nào họ ưa thích hơn. Khi họ chọn bức tranh của Thầy K. H., anh nói đó chính là điều anh suy nghĩ.

Khi Krishnaji còn nhỏ, những Bậc Thầy rất thực sự đối với anh, chính là vậy nên anh viết “Ngay chân Thầy,” tiếp theo đến thời kỳ khi đối với anh thực sự không còn mãnh liệt lắm, anh chỉ tin tưởng bởi vì điều gì C. W. L. và A. B. đã nói. Lúc này lại nữa thực sự mãnh liệt đã quay trở lại. Nitya nói rằng nhóm của chúng tôi sẽ tạo ra một bầu không khí mà phải “thu hút” sự chú ý của Họ. Anh nói về những ảnh hưởng khác biệt tại Ojai, vào những đêm khác nhau. Ảnh hưởng của Thầy M. như một quyền năng mà làm cho bạn cảm thấy có khả năng về bất kỳ việc gì. Ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự độ lượng hoàn hảo – nó có vẻ như là mật ngọt đang chảy vào bạn khi Ngài nói. Và ảnh hưởng của Thầy K. H. như sự trong sáng tuyệt đối, sự minh bạch hoàn hảo. Tiếp theo, ảnh hưởng vĩ đại nhất của tất cả những ảnh hưởng, ảnh hưởng của Chúa, như chúng tôi cũng đã cảm thấy tại Ehrwald[10] – an bình – “an bình mà chuyển thành sự hiểu rõ.”

Krishnaji nói về Adyar như về một ngôi nhà quyền năng phi thường, nơi hoặc bạn trở thành một vị thánh, trở nên điên khùng, hoặc bị đuổi đi như người vô dụng bởi một người quan sát luôn luôn chính xác.

Tôi chưa bao giờ thấy anh đẹp rực rỡ như lúc này vào những buổi tối, tại những thời điểm này. Đôi mắt của anh tươi cười bằng một hân hoan siêu thoát lạ thường, mà là hoan hỉtuy nhiên lại quá thanh thoát. Sự thanh thoát và một hân hoan tha thiết và thuần khiết choàng quanh anh, và biểu hiện trong những đường nét và những khúc khủy, và một hương thơm của những bông hồng lan tỏa và bao bọc anh. Thỉnh thoảng, anh run rẩy như thể bị lạnh và vào những lúc khác anh lại quá mệt nhoài, nhưng vào những đêm này, những đêm đặc biệt này mà tôi đang nói, Krishna thực sự, tất cả điều đó khiến cho anh là cái gì anh là trong ý nghĩa sâu thẳm nhất, đến và nhìn ra ngoài qua đôi mắt của anh.

Ngày 1 tháng giêng năm 1924:

 Lady Emily so sánh Rajagopal với St. Peter. Có vẻ anh là Người Hề Vui nhộn trong số những môn đệ hiện nay; và anh thiết tha thương yêu chức vụ của anh như High Court Jester Anh Hề. Muốn biết Krishnaji, người ta phải biết những người theo anh. Lúc trước, Rajagopal là St. Bernard của Clairveaux, và vào những thời điểm khác, anh đã là một giáo sĩ được kính trọng; và cả vị thánh lẫn giáo sĩ trỗi dậy nơi anh lặp đi và lặp lại. Đặc biệt có lẽ là người sau. Anh nói liên tục, và khi nói năng lại dài dòng và nhạt nhẽo, thật ra anh lên lớp về đạo đức một cách rỗng tuếch. Anh ham mê hay nói khác hơn giả vờ rất ưa thích thức ăn, điều này là chủ đề chính của anh cho những câu chuyện đùa vân vân. Khi Krishnaji bị căng thẳngmệt mỏi, hay nói chung cả nhóm, bị buồn chán, Rajagopal luôn luôn có sẵn vài câu chuyện đùa, hay những cụm từ vui nhộn, và anh tự động cười dai dẳng đến độ mọi người phải cười theo. Người ta nói rằng một phẩm chất mà tất cả những Bậc Thầy phải có, và nếu không có nó thì tất cả những môn đệ không thể tiến bộ được, là khiếu hài hước. Và sống thuộc tinh thần càng được dẫn dắt nhiều bao nhiêu, điều này càng trở nên rõ ràng nhiều bấy nhiêu. Khiếu hài hước sẽ giải tỏa sự căng thẳng của những cảm thấy và những suy nghĩ dưới những tình huống gay go nhất, và thường thường chắc chắn việc đó ngăn cản một cắt đứt rõ ràng trong công việc, hay cá thể trong một người. Chắc chắn sự dí dỏm của Rajagopal không thuộc loại nhạy bén và rõ ràng nhất, nhưng sau đó, nó cho phép Krishnaji và những người khác tham gia và góp thêm sự hài hước của họ. Không cần phải nói, Rajagopal nhận được nhiều chọc ghẹo, nhưng tiếp theo mọi người đến gần Krishna cũng vậy, mà là một cách anh gây ảnh hưởng mọi người; đặc biệt thuộc những phương cách nào đó.

Một trong những lý thuyết của Krishnaji là rằng người ta phải chắc chắn có thể phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan, đến với Thượng đế một cách tự nhiên như một bông hoa nở trước ánh sáng mặt trời. Một thời gian, nó có vẻ gây lo lắng cho anh, rằng mọi người anh gặp gỡ từ trước đến nay đã phát triển trong những cách quanh co của đau khổ, và vì vậy chẳng có bao nhiêu người nhận được cách đơn giản của hân hoan. Tôi nghĩ thậm chí tôi đã nghe anh nói rằng chưa bao giờ gặp bất kỳ ai phát triển chỉ qua duy nhất sự hân hoan; dẫu vậy nó có lẽ xảy ra được, mà sẽ trở thành rất thông dụng chỉ khi nào văn minh hiện nay của chúng ta không quá phức tạp. “Hãy tự nhiên, hãy vui vẻ.” Thế là Rajagopal có một vai trò quan trọng trong sự kiện to tát này, trong đó Krishnaji là người đầu tiên sẽ cười, người dễ dàng nhất sẽ được vui vẻ. “Hãy là một Thượng đế, và vui đùa một mình.”

Nói về hai năm được đào tạo bởi Leadbeater của anh, Krishnaji nói anh bị “chán nản đến độ rơi nước mắt,” theo nghĩa đen. Tất cả những ham muốn bị đốt cháy; ví dụ, K và N xin những chiếc xe đạp, (có thể bởi vì họ là những cậu trai còn nhỏ họ đã gây bực mình cho Leadbeater khi xin xe đạp); những chiếc xe đạp được tìm ra và đạp xe mười dặm không chỉ được thực hiện một lần nhưng họ phải thực hiện nó mỗi ngày trong suốt hai năm. Cũng vậy họ diễn tả một ham muốn xin ăn cháo; họ có nó – nhưng lại nữa, mỗi ngày trong suốt một năm; nếu họ có hai bàn chân bẩn thỉu, hay như một lần Nitya ném một viên đá vào một con ếch, nó là “Môn đệ của những Bậc Thầy không làm những việc này.” Nhưng chắc chắn lúc đó có vẻ rất khó khăn cho cậu trai da sẫm bé tí mà sẽ trở thành Krishna của ngày hôm nay – Chúa Jesus của ngày mai.

Anh đã trải qua nhiều sống như một người đàn bà, và những sống này đã để lại một dấu vết rất sâu đậm trong nhân cách của anh; khả năng lạ thường của anh về giáo dục làm cho anh không giống như mọi người đàn ông khác. Thỉnh thoảng anh có thể hung dữ giống hệt như con người ngược lại của anh, nhưng việc này luôn luôn cho một mục đích. Một cụm từ sắc bén ngắn gọn, mà đôi mắt lóe sáng của anh nhấn mạnh đến một mức độ không thể chịu đựng nổi, đó là tất cả. Krishnaji sẽ không bao giờ đề nghị nói chuyện với bất kỳ người nào, nếu một tiếp cận không được thực hiện, và sau đó trong hai hay ba lần đầu tiên mà một nói chuyện nghiêm túc được bắt đầu, anh nhút nhát ghê lắm.

Ngày 8 tháng chín năm 1924:

 Lady Emily, Cordes và tôi ngồi trong phòng của Krishnaji. Krishnaji đang ở trong một phòng tầng dưới. Thời gian vào khoảng bảy giờ mười lăm phút, và mọi chuyện đều giống hệt như những tối thông thường, ngoại trừ một yên lặng huyền bí ập xuống chúng tôi. Nơi nào đó trong cái tháp Nitya, Ramao Rao và Rajagopal đang hát thánh ca, và mùi hương trầm phảng phất trong phòng qua những chỗ nứt trên cửa ra vào. Tất cả chúng tôi cảm thấy Hiện diện của Ngài, làm thế nào ngay cả những người ngốc ngếch nhất mà không nhận ra được sự an bình không thể diễn tả được đang lan tỏa trong khu nhà. Chúng tôi ngồi “yên lặng lạ thường và hạnh phúc vô cùng” suốt một tiếng đồng hồ.

Sau đó, khi tất cả chúng tôi tập hợp lại cùng nhau, và Krishnaji ngồi giữa chúng tôi, nó như thể là chúng tôi chỉ vừa tìm được nhau; và khi chúng tôi kể về việc gì đã xảy ra, một tiếng cười ngọt ngào thấp giọng, của sự hân hoan vô cùng, không thể diễn tả được dường như bật ra trong đôi môi của chúng tôi. “Nếu bây giờ nó như thế này, nó sẽ là gì khi thời gian đến?”

Ngày 14 tháng chín năm 1924:

 Chiều nay thay vì chơi “bóng chuyền” như thường lệ, tất cả chúng tôi đều nằm dài trên những tảng đá chung quanh Square Tower. Krishnaji ngồi chồm hỗm trên những tảng đá cùng Ramao Rao, say mê ngắm nghía một con ốc sên nhỏ màu vàng. Có một lần cách đây vài năm, tôi nhớ đã ở cùng Krishnaji khi anh tìm thấy một đàn kiến và trải qua nguyên buổi sáng cho chúng ăn đường, chọc ghẹo chúng và quan sát chúng khuân trứng và dựng lại tổ của chúng. Vừa nãy, một con ốc sên khác được tìm ra và hai con bị bắt buộc bò qua nhau và bò lên xuống vách đá lởm chởm dốc đứng. Năm ngoái tại Ehrwald, anh nằm dài giữa những đám cỏ cao và hoa dại, bỗng nhiên một con bướm đậu trên bàn tay anh, và chốc lát sau anh lại có một hay hai con vẫy cánh thăng bằng trên đầu ngón tay của anh. Sự thích thú của anh không có giới hạn. Anh có tình yêu tất cả những sinh vật to lớn hay nhỏ bé, thật ra bất kỳ thứ gì đẹp đẽthiên nhiên đều khiến anh vui vẻ; anh sẽ đuổi theo một con cào cào và theo dõi những cử động của nó và thuộc lòng màu sắc hai cánh của nó; hay với câu “Tôi nói!” thông thường của anh, anh sẽ đứng mê mẩn trước một cảnh đẹp. “Chỉ nhìn ngắm cái hồ đó, nó rất êm ả, giống như tảng băng – và xanh đậm. Thấy những phản ảnh trong nó? Ồ, em nên thấy Geneva Lake – quá xanh.”

Krishnaji đọc một đoạn văn ngắn từ quyển “The Gospel of Buddha” “Lời vàng của Phật” trong khi tham thiền mỗi sáng. Thật ra anh là một người mộ đạo và chính âm thanh của danh tánh Chúa Buddha, hầu như có vẻ khiến anh rung động bởi một cảm giác tôn sùng tột đỉnh. Hôm nay có một câu, trong đó Chúa Buddha nói rằng, môn đệ sống trong thế giới phải giống như một bông sen. Ở Ấn độ, bông sen, tượng trưng sự tinh khiết. Khả năng nở hoa trọn vẹn trong khi vẫn bám rễ trong một cái ao bùn loãng của nó biểu hiện khả năng nở hoa trong sự tinh khiết và trỗi dậy từ bất kỳ điều kiện nào dù tối tăm hay ô uế của con người.

Chiều nay Krishnaji đang nói chuyện với tôi. Anh nói về Chúa Buddha và trạng thái hiện diện đó mà không có cái tôi. Những ngày này anh đang suy nghĩ về tuyệt đối không-cá nhân, và dường như anh đã lặn sâu vào cái giếng tinh khiết đó nơi không bị ô uế bởi bùn lầy của cái tôi. Và khi anh nói về Chúa Buddha, một thế giới mới mẻ trải dài trước mặt người ta, trong đó tất cả tham vọng và tình yêu cá nhân đều tan biến và đã trở thành con số không, chỉ một tình yêu vô bờ bến không-cá nhân không-lay động còn hiện diện. Sự nhận ra trọn vẹn của sống không-cái tôi chỉ thức dậy trong Krishnaji khi anh ở Ojai, và thậm chí anh thấy rằng nó hầu như không thể diễn tả được. Anh kể về làm thế nào khi tất cả những Bậc Thầy tụ họp cùng nhau, Chúa Buddha hiện diện giống như cơn gió phía bắc, quá tự do khỏi bất kỳ cái gì giống như cái tôi. Anh nói: “Bất kỳ lúc nào anh thấy bức tranh của Chúa Buddha, anh tự nhủ với mình, anh sẽ giống hệt như thế.”

Hình ảnh của Chúa Maitreya đã hiện ra cho anh rất nhiều dịp. Ở Pergine, khi xuất hiện lần cuối cùng Ngài sẽ trao cho Krishnaji một thông điệp – “Hạnh phúc mà ngươi đang tìm kiếm không phải ở đâu xa xôi; nó ở trong mỗi viên đá bình thường.” Trong một thông điệp khác, Ngài chuyển tải “Đừng tìm kiếm những Hiện diện Vĩ đại khi họ có lẽ ở rất gần con.” Ba buổi tối kế tiếp, Krishnaji sẽ thường xuyên cười đùa, kể những câu chuyện hài hước – nhiều thành viên của nhóm người bị choáng váng khi anh cư xử như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10659)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11120)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9614)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10511)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12113)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9762)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10256)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10281)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19262)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14715)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24406)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15463)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10423)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21585)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10286)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19376)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11412)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18792)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9336)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15982)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25764)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37940)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19705)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18804)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14390)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20209)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9580)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14439)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35705)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10729)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19808)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23291)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20320)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10691)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9260)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8548)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9803)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11265)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14197)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11413)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12140)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11111)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36499)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10536)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12259)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13729)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9216)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24960)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11707)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13086)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant