Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

39. “Bản chất của Thượng đế”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9272)
39. “Bản chất của Thượng đế”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 6

TÓM TẮT LỜI GIẢNG

1978-1985

CHƯƠNG 39

“Bản chất của Thượng đế”

Đ

ầu năm 1981, tôi được Indira Gandhi yêu cầu làm chủ tịch của ủy ban cố vấn được thành lập để tổ chức Lễ hội của những hoạt động Ấn độ ở Anh.[3] Trong sự hợp tác này, tôi viếng thăm nước Anh vào tháng năm. Sau khi công việc chính thức của tôi chấm dứt, tôi đến Brockwood Park để gặp Krishnaji. Tôi hỏi anh liệu có thể tiếp tục những đối thoại, và anh đồng ý. Buổi chiều đầu tiên chúng tôi bàn luận về “Bản chất của Thượng đế.” Một vài thành viên của Brockwood Park School hiện diện.

 Tôi hỏi Krishnaji liệu có thể thâm nhập vào “bản chất của, gọi nó là Thượng đế – gọi nó là sáng tạo – nền tảng của Hiện diện?”

 “Tôi nghĩ có thể được” Krishnaji đáp lại, “nếu người ta có thể làm tự do cái trí khỏi tất cả niềm tin – khỏi tất cả sự chấp nhận thuộc truyền thống của từ ngữ ‘Thượng đế’ và những hàm ý và những kết quả của từ ngữ đó. Liệu bộ não và cái trí có thể hoàn toàn được tự do để thâm nhập cái mà những người Do thái gọi là ‘không tên,’ người Ấn giáo gọi là ‘Brahman,’ ‘Sự thật tối thượng?’ Toàn thế giới tin tưởng từ ngữ ‘Thượng đế.’ Liệu bạn có thể gạt đi tất cả những niềm tin? Chỉ như thế sự thâm nhập mới có thể xảy ra được.”

 “Nhưng ‘Thượng đế’ là một từ ngữ; trong nó có một kho lưu trữ của nội dung. Vì vậy khi cái trí nói nó được tự do khỏi niềm tin, chính xác điều đó có nghĩa gì?”

 “Những con người nói họ tin tưởng Thượng đế,” Krishnaji trả lời. “Thượng đế là quyền năng vô hạn và hiện diện khắp mọi nơi, ngài hiện diện trong tất cả những sự vật. Có một chấp nhận thuộc truyền thống của từ ngữ đó cùng tất cả nội dung của nó. Liệu người ta có thể được tự do khỏi hàng triệu năm của truyền thống này – nhận biết cũng như không-nhận biết, được tự do khỏi từ ngữ đó?”

 “Tại một mức độ,” tôi nói, “có thể nói rằng người ta được tự do. Nếu anh sẽ hỏi tôi liệu tôi tin tưởng Thượng đế, liệu tôi tin tưởng Krishna, Rama, hay Shiva, tôi sẽ nói không. Nhưng đó không là vấn đề rốt ráo.”

 “Không,” Krishnaji nói.

 Tôi tiếp tục. “Có một cảm giác rằng Thượng đế còn vượt khỏi tất cả những từ ngữ, rằng nó là một bộ phận cốt lõi của nhân tố của chính sự sống. Trước khi tôi thâm nhập vào những nguồn gốc của từ ngữ đó, tôi phải thâm nhập vào trạng thái của cái trí của tôi mà nói rằng những niềm tin phía bên ngoài đều không còn, bởi vì có một ý thức rằng nếu không có ‘nó’ không gì có thể tồn tại. Rằng nó là nền tảng.”

 “Liệu chúng ta có thể bàn luận nền tảng từ đó mọi thứ khởi nguồn?” Krishnaji hỏi. “Làm thế nào người ta tìm được? Người ta chỉ có thể tìm được khi người ta tuyệt đối tự do, ngược lại người ta không thể. Ý thức của chúng ta quá bị nhồi nhét, quá chật cứng.”

 Tôi hỏi, “Liệu có một khả năng, của ở trong bất kỳ chuyển động nào của cái trí khi niềm tin không còn; niềm tin trong bất kỳ Thượng đế đặc biệt nào bị phủ nhận?”

 “Liệu người ta phủ nhận nó bằng từ ngữ hay sâu thẳm tại ngay gốc rễ của sự hiện diện của người ta? Liệu người ta có thể nói tôi không biết gì cả và kết thúc ở đó?” Krishnaji đáp lại.

 “Tôi không thể nói tôi không biết gì cả,” tôi trả lời. Nhưng tôi có thể nói rằng chuyển động của niềm tin trong một Thượng đế đặc biệt, không nảy ra trong cái trí. Vì vậy không có gì ở phía bên ngoài để phải phủ nhận như là niềm tin. Nhưng tôi vẫn còn không biết trạng thái của ‘tôi không biết gì cả,’ mà là một trạng thái rất khác biệt với chuyển động phía bên ngoài như niềm tin.”

 “Làm thế nào người ta tiến tới?” K hỏi. “Liệu chúng ta hoàn toàn có thể phủ nhận toàn chuyển động của hiểu biết? Phủ nhận mọi thứ ngoại trừ hiểu biết để lái một chiếc xe hơi và hiểu biết thuộc công nghệ? Liệu người ta có thể phủ nhận cảm thấy rằng người ta biết? Toàn hiểu biết được tích lũy của con người, mà nói có Thượng đế hay đã có những tiên tri và những người thấy mà đã nói không có những sự việc như Thượng đế. Liệu người ta có thể phủ nhận hiểu biết của tất cả mọi điều mà người ta biết?”

 “Người ta đã hiểu rõ phương cách để phủ nhận sự chuyển động đang nảy ra.”

 “Bạn có ý sự chuyển động đang nảy ra của suy nghĩ như niềm tin?” Krishnaji hỏi.

 “Vâng, những chiều sâu, những ngủ im lìm, hàng triệu năm mà hình thành ma thuật của sự hiện diện của người ta, làm thế nào người ta tiếp xúc thứ đó?”

 “Liệu chúng ta có thể bắt đầu không phải bằng thâm nhập liệu có Thượng đế, nhưng thâm nhập vào tại sao cái trí của con người đã làm việc, đã đấu tranh với trở thành? Trở thành không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả phía bên trong. Một trở thành mà được đặt nền tảng trên hiểu biết, trên chuyển động liên tục, một chuyển động nổi loạn – cái người nào đó đang hiện diện.” Krishnaji đang thâm nhập vào nghi vấn.

 “Bây giờ, liệu hai điều có liên quan? Chúng ta bắt đầu bằng một thâm nhập vào bản chất của Thượng đếchúng ta nói về ma thuậttrở thành. Chúng có liên quan?”

 “Chúng không liên quan sao?” Krishnaji hỏi. “Tôi nghĩ chúng có. Chúng ta hãy quan sát. Tôi có lẽ sai lầm. Hiện diện của tôi nhất thiết phải được đặt nền tảng trên điều gì đã được hiểu rõ, không phải từ ngữ, nhưng cảm thấy trong tôi rằng có cái gì đó vĩ đại, cái gì đó bao la không thể tin được. Tôi đang quan sát loanh quanh bộ phận đó của sự hiện diện của tôi, hiểu biết đó, truyền thống đó mà là ma thuật, nền tảng trên đó người ta đứng. Chừng nào nền tảng đó còn hiện diện ở đó, nguời ta không thực sự tự do. Liệu người ta có thể tìm hiểu nền tảng đó?”

 “Thưa anh,” Mary Zimbalist nói, “có một di sản của nền tảng đó trong mỗi sống của con người. Liệu nền tảng đó khác biệt bản năng của con ngườidi sản gắn kết đến? Liệu nó chỉ là di sản được truyền xuống, hay liệu nó là một chuyển động sâu thẳm mà tồn tại bẩm sinh trong cái trí của con người tách khỏi tất cả ảnh hưởng?”

 “Bạn đang hỏi, liệu cái này vốn có sẵn trong con người?” Krishnaji hỏi bạn ấy.

 “Liệu có một chuyển động vốn có sẵn trong mỗi con người hướng về sự hiện diện không biết được nào đó mà được tìm kiếm? Cái gì đó mà vượt khỏi điều gì người ta được dạy bảo, vượt khỏi điều gì người ta thâu nhận trong di sản của người ta?” Bạn ấy thắc mắc.

 “Liệu nó thuộc về gien?” Người khác hỏi.

 “Gien dính dáng thời gian và chuyển động của tăng trưởng, tiến hóa. Bây giờ, liệu người ta có thể hoàn toàn được trống không khỏi tất cả điều đó, sự tích lũy của một triệu năm? Tôi đang nói về cái bám rễ sâu nhất, cái gì đó mà không nhận biết được; những sự việc sâu thẳm đều luôn luôn như thế. Tôi nghĩ nếu chúng ta muốn thâm nhập, cái đó cũng phải bao gồm,” Krishnaji nói.

 “Liệu người ta có thể thâm nhập sâu đến tận điểm kết thúc của cái trí tầng ý thức bên trong?” Tôi hỏi. “Không có ý thức tầng bên trong đang được phơi bày, liệu nó có thể kết thúc? Làm thế nào người ta có thể trải nghiệm cái mà người ta không thể hình dung? Cái mà vượt khỏi tất cả những riêng biệt thuộc hiểu biết của bất kỳ một con người nào?”

 “Liệu bạn không có cảm thấy, thấu triệt vào nghi vấn này, rằng phải có sự phủ nhận tổng thể của tất cả những sự việc, hay sự khởi đầu của tất cả những sự việc?” Krishnaji hỏi.

 “Tôi hiểu rõ rằng sự phủ nhận của tất cả những sự việc đó nảy sinh trong bộ não. Nhưng những tầng của ý thức bên trong, nền tảng mà người ta đứng trên đó, liệu người ta có thể phủ nhận nền tảng đó? Có lẽ người ta đang đưa ra câu hỏi sai lầm. Có lẽ không bao giờ có thể có một phủ nhận của nền tảng đó. Làm thế nào người ta có thể phủ nhận nó?” Tôi đang cố gắng hiểu rõ.

 “Chờ một chút. Con người đã cố gắng trong nhiều cách để tìm được cái này. Anh ấy đã nhịn đói, anh ấy đã hành hạ chính anh ấy, nhưng anh ấy lại luôn luôn bám víu cái gì đó.”

 “Vâng.”

 “Người ta có thể được tự do khỏi những trói buộc từ hầu hết những sự việc. Liệu người ta có thể được tự do khỏi nghi vấn?” Mary hỏi.

 “Ồ, được chứ, ồ, được chứ,” Krishnaji nói.

 “Vậy thì, làm thế nào Pupul có thể đưa ra nghi vấn đó?” Mary thắc mắc.

 “Không,” Krishnaji nói. “Đó là toàn mấu chốt. Đầu tiên, liệu người ta có thể thực hiện một việc như thế? Liệu có thể tuyệt đối ‘không-chuyển động’? Nếu không, chuyển động là thời gian, suy nghĩ, và tất cả điều đó. Những sự việc phức tạp được bao gồm trong nó. Trước hết, tại sao chúng ta muốn tìm ra ý nghĩa của Thượng đế? Ý nghĩa đằng sau tất cả từ ngữ đó, tại sao chúng ta muốn tìm ra ý nghĩa của Thượng đế? Ý nghĩa đằng sau tất cả từ ngữ này?”

 Tôi trả lời, “Có một bộ phận của chúng ta mà vẫn còn đang tìm kiếm.”

 “Đúng, chính xác là nó. Chúng ta không bao giờ nói ‘Tôi không biết.’ Đó là một trạng thái của cái trí mà tuyệt đối bất động. Khi nói ‘Tôi không biết.’ ” Anh ngừng lại. “Tôi nghĩ đó là một trong những khó khăn của chúng ta. Tất cả chúng ta đều muốn biết – mà có nghĩa, đặt Thượng đế vào trong cái vịnh của hiểu biết.”

 “Theo dõi, thưa anh, liệu trong tai đang lắng nghe, trong mắt đang thấy – trong từ ngữ được nói ra – không có toàn nội dung của Thượng đế là gì, hay sao? Liệu không cần thiết phải xóa sạch ma thuật này, hay sao?” Tôi chất vấn.

 “Liệu bạn có thể xoá sạch ma trận?” Krishnaji hỏi.

 “Tôi không biết.”

 “Khi bạn sử dụng từ ngữ ‘ma trận,’ bạn có ý gì qua từ ngữ đó?” Krishnaji hỏi.

 “Tôi chỉ biết rằng vượt khỏi những đường chân trời của cái trí của tôi, của những niềm tin vững chắc, có những chiều sâu và những chiều sâu trong tôi. Anh sử dụng một cụm từ rất quan trọng nơi nào đó, ‘đùa giỡn loanh quanh với cái thăm thẳm.’ Vậy là anh cũng chỉ ra những chiều sâu vượt khỏi bề mặt đang hiển hiện. Liệu chiều sâu này ở bên trong ma trận?” Tôi vào sâu.

 “Không, không – không thể được,” Krishnaji nói. “Đó là lý do tại sao tôi đang hỏi, tại sao tôi muốn tìm ra liệu có cái gì đó vượt khỏi tất cả cái này?”

 “Bởi vì, Krishnaji, tôi không thể làm gì về ma trận này,” tôi nói.

 “Tôi không hiểu bạn gọi ma trận là cái gì?” Krishanji hỏi.

 “Chiều sâu này mà tôi không thể mang lên bề mặt, vào ánh sáng ban ngày của ý thức, của nhận biết, của chú ý. Chiều sâu này mà không hiển hiện trong phạm vi của hai mắt và hai tai của tôi, nhưng vẫn còn hiện diện ở đó. Tôi biết nó hiện diện ở đó. Nó là ‘tôi.’ Bởi vì không thể thấy nó, sờ nó, tôi có một cảm thấy rằng có lẽ nếu có một lắng nghe đúng đắn đến sự thật…” tôi đang cố gắng chuyển tải.

 “Chúng ta hãy thâm nhập nó. Liệu chiều sâu đó – nếu tôi được phép sử dụng từ ngữ đó trong chốc lát – liệu chiều sâu đó có thể đo lường được?” Krishnaji hỏi.

 “Không,” tôi đáp lại.

 “Vậy thì tại sao bạn sử dụng từ ngữ ‘chiều sâu’? Chiều sâu có nghĩa có thể đo lường được.”

 “Tôi đang sử dụng từ ngữ chiều sâu để có nghĩa cái gì đó vượt khỏi hiểu biết của tôi – anh thấy, nếu nó ở bên trong những đường nét của chân trời của tôi, sẵn sàng được sử dụng bởi những giác quan của tôi, vậy thì nó có thể đo lường được. Nhưng nếu nó không thể sử dụng được, tôi không thể làm bất kỳ điều gì về nó. Tôi không có những dụng cụ để tiếp cận nó.”

 “Làm thế nào bạn biết rằng có chiều sâu này? Liệu nó không là sự tưởng tượng? Bạn biết nó như trải nghiệm?” Krishnaji hỏi.

 “Vâng.”

 “A! hãy cẩn thận, hãy cẩn thận.”

 “Vấn đề là – nếu tôi nói vâng, nó là một cái bẫy. Nếu tôi nói không, nó là một cái bẫy.”

 “Tôi muốn thật rõ ràng, Pupulji, tha thứ cho tôi, rằng cả hai chúng ta đều hiểu rõ nghĩa lý của những từ ngữ của chúng ta.”

 “Chắc chắn, thưa anh. Một từ ngữ có thể được nói ra từ cái trí bề mặt và nó có thể được nói ra bằng một trọng lượng vô cùng đằng sau nó. Tôi đang nói rằng nền tảng này chứa đựng toàn lịch sử của con người. Nó có trọng lượng và chiều sâu vô cùng. Liệu tôi có thể không thâm nhập nó nếu anh không hỏi tôi liệu nó là sự tưởng tượng? Liệu anh không cảm thấy chiều sâu đó, hay sao?”

 “Tôi hiểu rõ, Pupulji, nhưng bạn thấy…” anh ngừng. “Và chiều sâu đó – nó là chiều sâu của yên lặng? Mà có nghĩa cái trí, bộ não hoàn toàn yên lặng – không cái gì đó mà đến và đi.”

 “Làm thế nào tôi có thể trả lời cái đó?” Tôi hỏi.

 “Tôi nghĩ người ta có thể – nếu khôngý thức của quyến luyến nó. Không ý thức của ký ức có dính dáng nó. Pupulji, chúng ta hãy bắt đầu lại. Toàn thế giới tin tưởng Thượng đế. Ở Ceylon họ rất bực dọc khi tôi nói rằng từ ngữ Thượng đế được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ. Bạn nhớ chứ? Toàn thế giới tin tưởng Thượng đế. Bất hạnh thay, tôi không biết Thượng đế là gì. Đúng thật rằng tôi không bao giờ có thể tìm ra.” Anh ngừng. “Và tôi không hứng thú tìm ra. Nhưng điều gì tôi quan tâm là liệu cái trí, bộ não, có thể trọn vẹn, tổng thể được tự do khỏi tất cả hiểu biết, trải nghiệm được tích lũy? Bởi vì nếu nó không, nó sẽ luôn luôn vận hành bên trong phạm vi của nó, đang lan rộng – đang thâu hẹp – theo chiều đứng, theo chiều ngang – nhưng luôn luôn bên trong khu vực đó. Không đặt thành vấn đề người ta tích lũy nhiều bao nhiêu, nó vẫn sẽ còn bên trong khu vực đó. Và nếu cái trí chuyển động khỏi khu vực đó và nói, ‘Tôi phải tìm ra,’ vậy là nó vẫn còn đang mang theo chuyển động, cái trí, cùng nó. Tôi không hiểu liệu tôi đang trình bày rõ ràng?” Có những khoảng ngừng lâu vô cùng giữa những từ ngữ của Krishnaji.

 Anh tiếp tục. “Vì vậy quan tâm của tôi là liệu bộ não, cái trí, có thể hoàn toàn được tự do khỏi tất cả ô uế của hiểu biết. Đối với tôi điều đó quan trọng cực kỳ, bởi vì nếu nó không được tự do, nó sẽ không bao giờ thoát khỏi khu vực đó, không bao giờ.”

 “Anh nói về bất kỳ chuyển động nào của cái trí – bất kỳ chuyển động nào.”

 “Vâng. Bất kỳ chuyển động nào thoát khỏi khu vực đó, phải phát giác rằng bộ não vẫn còn bị trói buộc trong hiểu biếttìm kiếm hiểu biết thêm nữa về Thượng đế. Vì vậy tôi nói sự quan tâm của tôi là liệu cái trí, bộ não có thể hoàn toàn bất động? Khi bạn đưa ra một nghi vấn thuộc loại đó, cũng giống hệt như bạn nói, ‘Nó không thể được’ hay ‘Nó có thể được.’ Nhưng nếu bạn phủ nhận có thể và không thể của nó, vậy thì cái gì còn lại? Bạn theo kịp chứ? Liệu tôi có thể có thấu triệt, chiều sâu của thấu triệt vào chuyển động của hiểu biết, để cho thấu triệt đó kết thúc sự chuyển động? Không phải tôi mà kết thúc sự chuyển động, cũng không phải bộ não mà kết thúc sự chuyển động. Trong đó, là sự kết thúc của hiểu biết và sự khởi đầu của cái gì khác. Vì vậy, tôi chỉ quan tâm đến sự kết thúc của hiểu biết, một cách có ý thức, một cách sâu thẳm. Có cảm thấy lạ thường này hiện diện bởi trạng thái hợp nhất, một thống nhất hòa hợp, và chẳng ích lợi gì nếu tạo ra những quy định riêng biệt, lúc đó bạn mãi mãi tự-tiếp tục sự đau khổ cho chính bạn – đúng chứ?” Lại nữa anh ngừng lại và lắng nghe.

 “ ‘Cái tôi’ là bản thể của hiểu biết,” anh tiếp tục. “Tôi nghi ngờ mọi thứ mà con người đã sắp xếp vào cùng nhau, gồm cả chính tôi. Đó là một thái độ rất tẩy rửa. Thế là chúng ta bắt đầu cùng cảm thấy lạ thường của không-biết bất kỳ việc gì. Nếu chúng ta có thể nói, ‘Tôi không biết gì cả,’ trong ý nghĩa sâu thẳm nhất của từ ngữ – nó hiện diện ở đó – bạn không phải làm bất kỳ việc gì cả.”

 Krishnaji thách thức tôi, “Theo dõi Pupulji, giả sử người này không ở đây. Làm thế nào bạn sẽ giải quyết vấn đề này? Làm thế nào bạn sẽ giải quyết nghi vấn của Thượng đế, niềm tin này? Làm thế nào bạn sẽ thực sự giải quyết nó mà không cần nương dựa vào bất kỳ người nào?”

 “Vâng, chắc chắn có thể thực hiện điều đó,” tôi trả lời.

 “Chúng ta hãy chuyển động từ đó. Mỗi người chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm. Chúng ta không nương dựa vào những uy quyền hay những vị thánh quá khứ. Mỗi người hoàn toàn chịu trách nhiệm phải trả lời nghi vấn này. Bạn phải trả lời nó.”

 “Tại sao tôi phải trả lời nó?” Tôi hỏi.

 “Tôi sẽ bảo cho bạn tại sao. Bạn là bộ phận của nhân loạinhân loại đang đưa ra nghi vấn này. Mỗi vị thánh, mỗi người triết lý, mỗi con người, nơi nào đó trong những chiều sâu của anh ấy, đang đưa ra nghi vấn này.”

 “Thưa anh, liệu nghi vấn không nơi nào đó này, trong một ý nghĩa, là sai lầm sao?” Mary hỏi.

 “Tôi đã nói như thế. Nhưng bạn phải trả lời nó mà không dựa vào bất kỳ điều gì đã được nói hay không được nói. Tôi đến bạn cùng những nghi vấn này. Tôi hỏi bạn như một con người. Đối với tôi, những nghi vấn này quan trọng cực kỳ.”

 “Tôi xin phép hỏi anh một điều? Làm thế nào người ta ấp ủ nghi vấn này và thả nó trong ý thức?” Tôi hỏi.

 “Pupulji, hoặc bạn chưa bao giờ suy nghĩ về nó, hoặc bạn đã suy nghĩ về nó và đã lượm lặt vô vàn thông tin từ những quyển sách – có lẽ đây là lần đầu tiên bạn đang đối diện nghi vấn này. Thâm nhập chầm chậm, thâm nhập chầm chậm.”

 “Anh có một cách ấp ủ một nghi vấn, thâm nhập nó, và sau đó, không có bất kỳ chuyển động nào của cái trí, ở lại cùng nó.” Tôi chối từ bị xua đuổi.

 “Vâng, điều đó sẽ đúng.”

 “Đó là điều gì tôi muốn biết. Người ta đưa ra nghi vấn và có chuyển động của cái trí hướng về nó. Với anh, khi một nghi vấn như thế được đưa ra, không có chuyển động của cái trí hướng về nghi vấn.”

 “Bạn nói đúng. Lúc này, bạn đang hỏi làm thế nào để ấp ủ nó?” Krishnaji hỏi.

 “Tôi biết tôi không thể ấp ủ nó,” tôi nói.

 “Không. Bạn đúng khi đưa ra nghi vấn đó.” Anh nói với mọi người. “Các bạn hiểu điều gì Pupulji đã nói? Làm nó, thực hiện nó. Tôi đang hỏi bạn như một con người, và những con người đã đưa ra những nghi vấn này suốt một triệu năm. Tôi đến bạn và đưa ra nghi vấn này – bạn sẵn sàng giải đáp hay bạn lặng lẽ ấp ủ nghi vấn? Ấp ủ nó, bạn hiểu chứ? Và từ chính đang ấp ủ đó mà không có bất kỳ phản ứng, bất kỳ trả lời, đáp án hiện diện. Đúng chứ?”

 “Ông có thể nói điều gì đó về bản chất của đang ấp ủ đó?” Scott Forbes, một thành viên của một khoa tại Brockwood Park School hỏi.

 “Một cái tách chứa đựng nước. Một cái ao là một nơi chứa đựng nước, một chứa đựng không một gợn sóng, không bất kỳ động cơ hay chuyển động, không bất kỳ ý thức của cố gắng tìm ra một đáp án.”

 “Thưa anh,” Mary nói, “với hầu hết mọi người chúng tôi, chúng tôi có lẽ không cố gắng tìm ra một đáp án, thoạt đầu chúng tôi có lẽ lặng lẽ ấp ủ một nghi vấn không-đáp án, nhưng chẳng mấy chốc một đáp án mà có lẽ không là điều gì đó từ những cái giếng thăm thẳm của tầng ý thức bên trong lại hiện diện và trào lên để lấp kín không gian đó.”

 “Tôi biết. Bây giờ chờ một chút. Tôi đưa ra cho bạn một nghi vấn. “Liệu bạn tin tưởng Thượng đế?” Tôi đang đưa ra nghi vấn đó. Liệu bạn có thể nói, bạn không biết hay bạn không tin tưởng hay liệu bạn nói, có lẽ? Không nói bất kỳ điều gì về nó, liệu bạn có thể nhìn ngắm nghi vấn? Bạn có thể chứ? Nếu bạn hỏi một người Thiên chúa giáo sùng đạo, ngay tức khắc anh ấy sẽ nói, “Dĩ nhiên tôi tin tưởng Thượng đế.” Nếu bạn đi đến Ấn độ và hỏi, ngay lập tức sẽ có một phản ứng. Nó giống như đang ấn một cái nút. Đối với tôi, tôi thực sự không biết liệu có Thượng đế hay không.”

 “Trong đang ấp ủ, liệu không có một thâm nhập?” Scott lại nói.

 “Bạn thấy – nếu bạn không hiểu rõ điều này, nó có thể dẫn đến nhiều hiểu lầm. Thưa bạn, những máy tính có thể được lập trình bởi mười giáo sư khác nhau, cùng nhiều hiểu biết. Chúng có thể chứa đựng vô vàn thông tin. Những bộ não của chúng ta được đào tạo theo cách đó, chúng đã được lập trình suốt hàng ngàn năm, và bộ não đó trả lời một câu hỏi ngay tức khắc. Nếu bộ não không được lập trình, nó đang quan sát, đang nhìn ngắm. Lúc này, liệu những bộ não của chúng tathể không bị lập trình?”

 “Nhưng hoạt động của đang nhìn ngắm loanh quanh này không là đang ấp ủ? Anh có thể nói điều gì đó về đang ấp ủ?” Scott tiếp tục.

 “Bạn nói nó,” Krishnaji đang đẩy sâu.

 “Tôi không có gì để nói.”

 “Đẩy, đẩy.” Krishnaji nói.

 “Như cái tách chứa đựng nước hay quả đất chứa đựng cái ao, liệu có cái gì đó mà chứa đựng giống như cái tách và quả đất?”

 “Không. Pupulji hỏi tôi một nghi vấn về chiều sâu. Bạn thâu nhận nghi vấn đó. Trả lời của bạn là gì?”

 “Nghi vấn nào, thưa anh?” Scott hỏi.

 “Từ chiều sâu – tầng sang tầng, từ chiều sâu, nền tảng. Lúc này, phản ứng của bạn đến nghi vấn đó là gì?”

 “Anh thấy, thưa anh,” tôi chen vào, “khi thông thường một nghi vấn được đưa ra, nó giống như những hột đường đang được rải trên mặt đất – những con kiến từ khắp mọi nơi bò đến đó. Cũng như vậy đối với cái trí; khi một nghi vấn được đưa ra, những chuyển động, những phản ứng được đánh thức mà bị hút về hướng nghi vấn. Lúc này nghi vấn là, liệu nghi vấn có thể được đưa ra mà không có những chuyển động này?”

 “Không có những con kiến, vâng. Tôi được bảo rằng khi bộ não không đang vận hành – là yên lặng – nó có một chuyển động của riêng nó. Chúng ta đang nói về bộ não mà ở trong sự chuyển động liên tục, năng lượng của nó là sự suy nghĩ. Liệu sự suy nghĩ là vấn đề? Làm thế nào bạn sẽ giải đáp nghi vấn này? Làm thế nào bạn có thể thâm nhập trọn vẹn vào sự suy nghĩ? Đừng gây phức tạp nó. Tôi đưa ra cho bạn một nghi vấn. Đừng trả lời ngay lập tức. Nhìn ngắm nó, bám chặt nó. Đây không là một kỳ thi. Liệu người ta có thể có một cái trí mà có khả năng không phản ứng ngay tức khắc đến một nghi vấn? Liệu có thể có một phản ứng trì hoãn, không làm gì cả, có lẽ, đang bám chặt nghi vấn một cách vô hạn định?

 Chúng ta hãy quay lại, Pupulji. Liệu có một trạng thái của cái trí vượt khỏi thời gian? Liệu đó là một trạng thái của thiền định thăm thẳm? Một thiền định trong đó không có trạng thái của thành tựu, không có gì cả. Cái đó có lẽ là nền tảng, khởi nguồn của tất cả những sự vật, một trạng thái trong đó người thiền định không hiện diện.”

 “Tôi xin phép hỏi, liệu người thiền định không là nền tảng hay sao?”

 “Chắc chắn không phải.”

“Nếu không có người thiền định, liệu nền tảng có thể hiện diện?”

“Nếu người thiền định hiện diện ở đó, nền tảng không hiện diện.”

“Nhưng nếu không có người thiền định, liệu có thể có thiền định?” Tôi hỏi.

“Tôi nói về một thiền định mà không có người thiền định.”

“Thiền định là một tiến hành của con người,” tôi nói.

“Không,” Krishnaji nói.

“Chúng ta hãy thâm nhập điều này nếu chúng ta được phép. Thiền định không thể được tự do khỏi sự hiện diện cá thể. Không thể có thiền định nếu không có người thiền định. Anh có lẽ nói người thiền định không là nền tảng.”

“Không, chờ một chút. Chừng nào tôi còn đang cố gắng thiền định, thiền định không hiện diện,” Krishnaji nói.

“Vâng,” tôi đồng ý.

“Thế là chỉ có một bộ não, cái trí, cái đó ở trong một trạng thái của thiền định.”

“Vâng.”

“Lúc này đó là nền tảng. Vũ trụ ở trong một trạng thái của thiền định và đó là nền tảng, đó là nguồn gốc của mọi sự vật. Nó chỉ có thể xảy ra khi người thiền định không hiện diện.”

“Và nó chỉ có thể xảy ra khi không có những trói buộc.”

“Tuyệt đối. Trong đó có sự tự do tuyệt đối khỏi sự đau khổ. Trạng thái của thiền định đó hiện diện cùng sự kết thúc trọn vẹn của cái tôi. Khởi đầu có lẽ là một tiến hành vĩnh viễn, khởi đầu, một khởi đầu vĩnh viễn. Làm thế nào điều này có thể xảy ra được? Liệu một bộ não, một con người có thể hoàn toàn, tuyệt đối được tự do khỏi người thiền định? Vậy là không còn nghi vấn liệu có Thượng đế hay không có Thượng đế. Vậy là thiền định đó là thiền định của vũ trụ.” Anh ngừng.

“Liệu có thể tuyệt đối được tự do như thế? Tôi đang đưa ra nghi vấn đó. Đừng trả lời, hãy ấp ủ nó. Bạn thấy tôi có ý gì? Hãy thả cho nó vận hành. Trong đang ấp ủ nó, năng lượng đang được tập hợp và năng lượng đó sẽ hành động, không phải bạn hành động. Bạn hiểu chứ?” Sau một khoảng ngừng thật lâu, Krishnaji hỏi, “Vậy là, chúng ta đã hiểu rõ bản chất của Thượng đế?”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10658)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11119)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9613)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10511)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12113)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9762)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10255)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10281)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19261)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14711)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24401)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15462)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10422)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21581)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10286)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19373)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11412)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18791)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9335)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15982)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25762)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37940)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19701)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18801)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14387)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20208)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9579)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14438)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35703)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10728)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19808)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23290)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20319)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10690)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9260)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8541)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9803)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11264)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14194)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15291)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11412)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12140)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11110)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36498)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17355)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10536)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12258)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13729)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9216)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24958)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11707)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13085)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant