Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. “Dường như Cái trí lan rộng vô tận”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7944)
17. “Dường như Cái trí lan rộng vô tận”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 3

PHƠI BÀY LỜI GIẢNG

1950-1959

CHƯƠNG 17

“Dường như Cái trí lan rộng vô tận.”

Tháng ba năm 1955, người ta quyết định rằng trước khi quay lại Châu âu, Krishnaji sẽ nghỉ một tháng tại Ranikhet, một nhà ga trên đồi ở Himalayas. Suốt những năm cai trị của người Anh, Ranikhet, trong những dãy Kumaon của Himalayas, là một vị trí quân sự – không người dân sự nào sống ở đó. Những ngôi nhà, giống như tất cả những ngôi nhà nào được xây dựng bởi người Anh trong những nhà ga trên đồi của Ấn độ, đều là những bản sao nhớ cố hương giống hệt những ngôi nhà người Anh – núp mình trong những cái vườn, đầy hoa thơm và những cây thông nhựa thơm và những cây thông tuyết cao ngất. Mùi hăng của nhựa thông và khói thấm vào cây cối. Những bụi hoa đã được trồng dọc theo vệ đường, và vào mùa hè chúng rực rỡ những bông hoa.

 Từ Ranikhet hình thành sẵn lộ trình đến những vị trí thiêng liêng của hành hương, nằm sâu trong những rặng Himalayas – đến Kedarnath và Badrinath, ngôi nhà ở Himalayas của Shiva và Vishnu; đến những nguồn của con sông Ganga và Jamuna; và đến Kailash và Manasarovar ở Tibet. Kailash, ngôi nhà trên núi bao bọc bởi tuyết của Shiva sau khi ông được chấp nhận vào danh sách các vị thần Brahmin, có hình như chóp nón. Ở một phía của hòn núi là Manasarovar, cái hồ nước trong xanh là nơi nghỉ ngơi của những con thiên nga vàng thần thoại, ham sa. Âm thanh của cái tên con thiên nga vang rền cùng những yên lặng của vũ trụ, và cùng hơi thở vào ra của prana sức mạnh của sự sống. Ở phía bên kia của hòn núi là Raksasa Tal, một cái hồ núi lửa có nước màu đen hung tợn. Hai cái hồ này tượng trưng hai khía cạnh của Shiva và của cái trí – sự hỗn loạn và sự yên lặng tuyệt đối.

 Từ Ranikhet, vào một ngày quang đãng, người ta có thể thấy một dải rộng của những đỉnh núi Himalayan phủ tuyết. Chúng có những cái tên thiêng liêng – Nandadevi, Neelkanth, Nandakhot, Trisul. Bình minh và hoàng hôn, mặt trời giữa trưa khạc lửa, mặt trăng tròn vào ban đêm – tất cả bộc lộ ánh sáng và những cái bóng trên những khuôn mặt kiên định, đe dọa của chúng. Chúng là những người thấy vĩnh cửu, những người bảo vệ đất đai và nguồn của những con sông ban tặng sự sống.

 Achyut đã đi đến Ranikhet và tìm được một ngôi nhà, Ardee, cho Krishnaji sống. Người ta sắp xếp rằng, chồng của tôi lái xe đưa Krishnaji từ Bombay đến Ranikhet. Krishnaji đã ở Bombay tổ chức những nói chuyện và những bàn luận, và họ quyết định anh sẽ rời để đi đến những quả đồi vào ngày 18 tháng ba. Tuy nhiên, ở Bombay anh bị sốt nặng. Krishnaji bị mê sảng; anh không thể chịu được sự ồn ào và giường nằm của anh phải được chuyển sang phòng khách. Dr. Nathubhai, một bác sĩ giỏi, khám cho Krishnaji và khẳng định rằng anh đã có những con giun do bởi ăn thức ăn sống. Thân thể nhạy cảm của K đã phản ứng dữ dội, và bàng quang và đường dẫn nước tiểu bị viêm. Tuy nhiên, với sự điều trị, Krishnaji hồi phục mau chóng. Tuần thứ ba của tháng ba chúng tôi ở Delhi, và vào ngày 28 tháng ba, chúng tôi sẵn sàng rời đó để đi đến những hòn núi.

 Kitty Shiva Rao đã sắp xếp một trong những người giúp việc của em, Diwan Singh, và Tanappa từ Rajghat, đi trước đến Ranikhet và chuẩn bị ngôi nhà cho Krishnaji. Chuyến đi khoảng trên hai trăm dặm. Vì Krishnaji không thể chịu được sức nóng, chúng tôi bắt đầu chuyến đi lúc 5 giờ sáng.

 Krishnaji ngồi ghế trước cùng người chồng của tôi, đang lái xe, và Madhavachari và tôi ngồi phía sau. Không khí sáng sớm thật mát mẻ, và chúng tôi đi gần đến những chân đồi trước khi mặt trời quá nóng. Trước kia Krishnaji là người lái xe giỏi. Sự cảnh giác cực độ của anh có thể nhận biết được những giây phút trước khi thảm hoạ xảy ra. Nhưng như người lái xe phụ, anh đang gây nhiều bối rối. Suốt chuyến hành trình anh liên tục chỉ bảo Jayakar làm việc này và không làm việc kia; cảnh báo anh ấy về những nguy hiểm đang đến gần. Nhiều lần chúng tôi gợi ý rằng Krishnaji ngồi cùng chúng tôi ở phía sau, nhưng anh quả quyết không chịu chuyển chỗ ngồi.

 Madhavachari và tôi bắt đầu bàn luận những vấn đề khác nhau liên quan đến hiểu rõ về chính mình. Chúng tôi đã bền bỉ leo lên núi; quang cảnh những thác nước và những hẻm núi sâu và những sườn đồi dựng đứng phủ đầy cây đỗ quyên. Chúng tôi nhìn ra ngoài cây cối đang thay đổi, những tảng đá và những vách đứng, những con suối ào ào. Chúng tôi đang nói về sự tỉnh thức, và mổ xẻ vấn đề đến từng chi tiết về bản chất của nó, khi bỗng nhiên chúng tôi cảm thấy bị nẩy người lên. Chúng tôi không chú ý và tiếp tục bàn luận của chúng tôi. Một vài giây sau, Krishnaji quay lại và hỏi chúng tôi đang bàn luận điều gì. “Sự tỉnh thức,” chúng tôi nói, và ngay lập tức bắt đầu đặt ra cho anh những câu hỏi về nó. Anh lắng nghe, nhìn chúng tôi đầy giễu cợt, và sau đó hỏi, “Bạn có nhận thấy điều gì vừa xảy ra lúc nãy?”

 “Không.”

 “Chúng ta vừa tông một con dê, bạn thấy nó?”

 “Không.”

 Sau đó rất nghiêm nghị anh nói, “Và bạn đang bàn luận sự tỉnh thức.” Không từ ngữ nào cần thiết nữa. Nó gây choáng váng cực độ.

 Ngôi nhà ở Ranikhet mọc đầy dây leo, ngôi vườn phủ đầy cỏ dại, nhưng những cây thông tuyết và những cây thông nhựa thơm vây quanh ngôi nhà. Sự tinh khiết nồng nặc của nhựa thông tỏa khắp những căn phòng. Nó là an bình mãnh liệt bởi sự yên lặng được tìm thấy nơi những ngôi nhà cô đơn nằm trong những cánh rừng.

 Chồng tôi và tôi quay lại Delhi sau khi ở lại đêm đó. Madhavachari phải đi đến Madras, và anh ấy theo về cùng chúng tôi. Achyut ở cùng Krishnaji một vài ngày.

 Krishnaji thực hiện những chuyến dạo bộ rất lâu một mình. Trong những cây thông nhựa thơm và những cánh rừng thông tuyết anh bị lạc, nhưng tìm được lối về theo bản năng.

 Cây cối tương phản cái phông của những đỉnh núi Himalayas là một cảnh tuyệt vời. Anh nói về những đỉnh núi này trải dài từ Nepal đến những hang động Badrinath: “Chúng cách chúng tôi khoảng sáu mươi dặm, cùng một thung lũng xanh sậm mênh mông giữa chúng và chúng tôi, trải dài trên hai trăm dặm. Chúng kéo thẳng đường chân trời từ đầu này sang đầu kia. Sáu mươi dặm đang ngăn cản đó dường như biến mất, và chỉ có sức mạnh và sự cô đơn đó. Những đỉnh núi này, một số cao trên 25.000 feet, mang những cái tên thiêng liêng, bởi vì những thần thánh sống ở đó, và con người đến với chúng từ những khoảng cách thật xa xôi để tôn sùng và để chết.

 “Cái trí dường như bao phủ không gian mênh mông và khoảng cách vô tận, hay nói khác hơn cái trí dường như lan rộng mà không có một kết thúc, và đằng sau và vượt khỏi cái trí có cái gì đó mà ôm ấp tất cả những sự vật trong nó.”

 Sau đó anh chất vấn những nhận biết riêng của anh. “Cái vượt khỏi tất cả ý thức không thể suy nghĩ được hay trải nghiệm được bởi cái trí. Nhưng vậy thì, cái gì mà đã nhận biếtý thức được cái gì đó hoàn toàn khác hẳn những chiếu rọi của cái trí? Ai trải nghiệm nó? Chắc chắn đó không là cái trí của những ký ức, những phản ứng và những thôi thúc hàng ngày.

 “Liệu có một cái trí khác?” anh tự hỏi mình. “Liệu có một bộ phận của cái trí mà ngủ im lìm, chỉ được thức dậy bởi cái đó mà một mình và vượt khỏi tất cả cái trí? Nếu đây là như thế, vậy thì bên trong cái trí luôn luôn có cái đó mà vượt khỏi tất cả suy nghĩthời gian. Và tuy nhiên điều đó không thể được, bởi vì nó chỉ là sự suy nghĩ giả thiết và thế là một sáng chế khác của cái trí.

 “Bởi vì sự bao la không được sinh ra từ qui trình của cái trí, vậy thì cái gì nhận biết nó? Liệu cái trí như người trải nghiệm nhận biết nó, hay sự bao la tự nhận biết nó bởi vì không có người trải nghiệm? Chỉ có cái đó, và cái đó tự nhận biết nó mà không-đo lường. Nó không khởi đầu và không từ ngữ.”

 Vào chiều tối, Krishnaji ngồi trước lò sưởi và nhờ Achyut dạy cho anh một ít tiếng Phạn. Achyut bắt đầu đọc Mandukya Upanishad cùng Krishnaji. Upanishadbộc lộ âm thanh của Aum – toàn âm thanh của nguyên âm trong đó không có những phụ âm – âm thanh Aum mà vang vọng trong vũ trụ và trong những cái hang của quả tim khi tất cả những âm thanh phía bên ngoài đã kết thúc.

 Achyut hỏi, “Có điều gì sai trái với âm điệu Aum nếu cái trí trở nên yên lặng?”

 “Cái trí của bạn trở nên yên lặng?”

 “Trong giây phút đó khi chúng ta ngâm âm thanh – ‘cái tôi’ không hiện diện,” Achyut nói.

 Trả lời của Krishnaji phủ nhận tất cả những nương tựa và những cái nạng. “Việc gì bạn đang làm bao hàm thời gian. Cái đó không liên quan gì đến thời gian. Thời gian không bao giờ có thể dẫn đến cái khác lạ.”

 Achyut quay lại đồng bằng sau một vài ngày và Krishnaji ở một mình tại Ardee. Một loạt những lá thư gửi tới người chồng của tôi tiết lộ sự lưu tâm tỉ mỉ của Krishnaji về quần áo của anh. Anh luôn luôn có một cảm giác say đắm về màu sắc và kết cấu của vải. Những loại vải dệt bằng tay làm say mê anh. Ở Ấn độ anh mặc rất đơn giản nhưng thanh lịch, một kurta dài đến dưới đầu gối và những bộ pyjama rộng. Để cho ấm áp anh mặc một jacket hay một choga. Anh có nhiều những loại vải bằng len đẹp này, được cho anh bởi Mrs. Besant, chế từ len tus của Kashmir, trong những màu nâu mật đậm.

 Trong năm 1948 và vài năm sau, anh chỉ mặc màu trắng. Nhưng sau đó tình yêu những màu đất của người hành khất thịnh hành. Bạn bè mua cho anh những loại vải bông dệt bằng tay và những kurta bằng vải lanh thô dệt bằng tay được chế tạo từ những phế phẩm sau khi lụa đã được quấn thành chỉ, trong những màu sắc từ màu kem đậm đến màu nâu vàng cháy và những màu sắc nhuộm vỏ cây được mặc bởi những thầy tu Phật giáo.

 Sống một mình, cùng một người nấu bếp chăm sóc những nhu cầu của anh, Krishnaji đã tự làm mới mẻ chính anh. Anh thực hiện những chuyến dạo bộ thật lâu, nói chuyện cùng những đỉnh tuyết phủ, nhìn ngắm, lắng nghe thế giới bên trong anh và quanh quanh anh. Một lần anh kể cho chúng tôi một câu chuyện về nhiều con khỉ, những con khỉ mặt đen của Châu á thường đu đưa trên những ngọn cây quanh Ardee. Một buổi sáng anh đang viết trong phòng của anh, cửa sổ mở. Bỗng nhiên anh có một cảm giác của đôi mắt đang chú ý nhìn anh. Anh ngước lên và thấy một con khỉ trưởng thành đang ngồi trên bệ cửa sổ và nhìn chằm chằm vào căn phòng. Krishnaji đứng dậy và bước về phía con khỉ. Khi họ đối diện nhau, con khỉ dơ bàn tay của nó ra. Krishnaji cầm nó và con khỉ để cho anh nắm chặt. Có sự tin cậy tuyệt đối. Krishnaji diễn tả sự tiếp xúc lòng bàn tay con khỉ như mạnh mẽ, rất mềm mại, bất kể những vết chai sạn do bởi leo trèo những cành cây. Trong vài phút họ vẫn còn cầm tay nhau, sau đó con khỉ cố gắng vào phòng. Krishnaji đẩy nó ra, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, và đóng cửa sổ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10659)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11120)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9616)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10511)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12113)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9763)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10256)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10281)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19263)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14716)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24407)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15463)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10423)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21587)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10288)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19379)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11412)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18792)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9336)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15983)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25764)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37940)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19706)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18805)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14391)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20211)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9581)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14441)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35705)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19808)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23291)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20320)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10691)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9260)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8551)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9804)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14197)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15294)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11414)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12141)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11111)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36500)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10536)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12262)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13730)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9216)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24962)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11709)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13086)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant