Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. “Bạn là thế giới”

18 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8517)
10. “Bạn là thế giới”

TIỂU SỬ CỦA KRISHNAMURTI
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Lời dịch: Ông Không
Tháng 4-2011

PHẦN 2

 KRISHNAMURTI Ở ẤN ĐỘ

1947 – 1949

CHƯƠNG 10

“Bạn là thế giới” 

T

rong những năm sau, Krishnamurti sẽ nói về chính anh ấy, “Thức dậy trọn vẹn xảy ra ở Ấn độ trong năm 1947 và 1948.” Suốt những năm đó, năm cách truyền đạt cần thiết cho toàn bộ lời giảng đang được nảy mầm: những nói chuyện trước công chúng, những đối thoại và những bàn luận, những phỏng vấn cá nhân, những thấu triệt có vẻ ngẫu nhiên được bộc lộ vào những dạo bộ hay tại bàn ăn, và những yên lặng. Krishnamurti đang giới thiệu cho những người quen biết và những người lắng nghe về con sông của tự-hiểu rõ về chính mình, về một hành trình của khám phá “về chính người ta mà không một khởi đầu” mà trong chuyển động của nó đập tan những giới hạn của cái trí, mở toang những biên giới mới mẻ của sự nhận biết. Nó là một lời giảng khổ hạnh, không phải trong sự đòi hỏi của nó để từ bỏ hay hy sinh phía bên ngoài (mặc dù trong thực tế, khổ hạnh và một sống đúng đắn là nền tảng từ đó lời giảng bắt nguồn), nhưng trong sự phủ nhận toàn bộ tất cả những nương tựa, những cái nạng, và những nghi lễ, thậm chí những tinh tế nhất.

Sự phủ nhận đạo sư như là trung tâm cho sự tìm hiểu tôn giáoẤn độ là sự phủ nhận tột đỉnh của tất cả uy quyền thuộc tinh thần; bởi vì khi không có một quyển sách giải thích về thiêng liêng, đạo sư là người khởi xướng, người thầy, lối dẫn đến sự thật. Qua không thừa nhận vị trí của bất kỳ trung gian nào giữa người tìm kiếmsự thật của anh, Krishnamurti đòi hỏi sự trách nhiệm tổng thể nơi người tìm kiếm. Đối với người tìm kiếm anh nói, “Sự thật ở gần, bạn không phải tìm kiếm. Sự thật ở trong ‘cái gì là’, và đó là vẻ đẹp của nó.” Nhưng đối với người khao khát mà phía bên trong vẫn còn là một môn đệ, có sự hoang mang, bởi vì không có nơi nào để đi, không có mục đích nào để đến, không có đỉnh núi nào để leo lên. Không có đạo sư nào để hứa hẹn sự ngây ngất và những ánh sáng nổ tung, không những tầm nhìn hay siddhis, những quyền năng siêu nhiên, để duy trì một tìm kiếm; tất cả những hiện tượng siêu giác quan khi chúng nảy sinh phải được quan sát và gạt đi. Sự quan tâm duy nhất là ở cùng sự thức dậy của một nhận biết đang sống: đang thấy và đang lắng nghe cái thực sự trong phía bên ngoài, khi được bộc lộ trong sự liên hệ cùng con ngườithiên nhiên; và trong phía bên trong khi được bộc lộ trong những suy nghĩ và những cảm thấy mà là nội dung thực sự của cái trí.

Sự nhận biết lãnh vực giới hạn này, trực tiếp và thông suốt, là sự khởi đầu của hiểu rõ về chính mình, về cái tôi như “là.” Quan sát sự suy nghĩ khi nó đã nảy ra trong ý thức, và khi nó đã biến mất, giữ chặt ngay tại đuôi của nó và không buông rơi, là có những thấu triệt vào bản chất của sự suy nghĩquan sát “cái gì là.”

Nhưng “cái gì là,” trong chuyển động vùn vụt của nó, liên tục đang thay đổi, đang biến đổi, trong luồng không ổn định. Một nhận biết đang trôi chảy từ những giác quan bị trói chặt vào một cái trí cố định trì trệ, bị giam giữ trong sự suy nghĩ được sinh ra từ quá khứ, đã không có năng lượng hay sự linh động để theo đuổi và là một cùng hiện tại, “ngay lúc này” của sự tồn tại, và hành động từ sự nhận biết đó. Luôn luôn con người đang tìm kiếm để đúc khuôn chuyển động của sự suy nghĩ, đang chiếu rọi hành động vào tương lai như “tôi sẽ là,” và thế là đang ngăn cản hành động trong hiện tại. Krishnamurti hỏi, “Đó là ai mà tìm kiếm để đúc khuôn hay thay đổi sự suy nghĩ hay cho nó một phương hướng? Xóa sạch sự suy nghĩ, người suy nghĩ ở đâu? Nếu người suy nghĩ là sự suy nghĩ – vậy là anh ấy không thể hành động hay thay đổi sự suy nghĩ. Suy nghĩ phải kết thúc.”

Khi được hỏi, “Làm thế nào người ta biết về chính người ta? Có gì để biết? Người ta tìm kiếm cái gì? Người ta khởi sự ở đâu?” anh trả lời, “Nghi vấn càng phức tạp nhiều bao nhiêu, rối loạn càng áp đảo nhiều bao nhiêu, sự tiếp cận phải càng nhiều đơn giảnhồn nhiên bấy nhiêu. Con người không biết phương cách, thế là việc duy nhất anh ấy có thể thực hiện là không đấu tranh nữa và bằng bất kỳ năng lượng lẫn dụng cụ nào anh ấy có, hãy quan sát cái là ngục tù. Nó là cái đơn giản, cái trĩu nặng đau khổ, cái người tìm kiếm thực sự mà là sự hy vọng. Cái đơn giản bị nghiền nát bởi sự vô nghĩa riêng của nó, đến độ nó không còn tin tưởng sự hòa nhập của những ý định riêng của nó nữa.”

Nhiều người đến gặp anh để tìm kiếm sự chữa trị phần thân thể. Đối với họ anh nói, “Tại một thời điểm tôi cũng có chữa bệnh phần thân thể; nhưng tôi thấy chữa trị cái trí, trạng thái bên trong của thân tâm còn quan trọng hơn nhiều. Chỉ tập trung vào chữa trị phần thân thể có lẽ trở nên nổi tiếng, thu hút những đám đông to lớn, nhưng nó sẽ không dẫn con người đến hạnh phúc.”

Trong quyển Bình phẩm về Sống Tập 1, anh viết: “Chúng ta là một chủng tộc già nua; chúng ta lang thang để tìm kiếm mọi thứ trong những nơi thật xa xôi khi nó lại rất gần gũi chúng ta. Vẻ đẹp luôn luôn ở đó, không bao giờ ở đây, sự thật không bao giờ trong những tổ ấm của chúng ta nhưng trong nơi xa xôi nào đó. Chúng ta đi qua phía bên kia của thế giới để tìm người thầy, và chúng ta lại không nhận biết được người đầy tớ; chúng ta không hiểu rõ những sự việc thông thường của sống, những đấu tranh và những hân hoan hàng ngày và vẫn vậy chúng ta lại gắng sức để nắm bắt cái huyền bí và cái giấu giếm.”

Những nói chuyện trước công chúng ở Bombay của Krishnamurti vào tháng giêng năm 1948 được tổ chức trên những bãi cỏ thuộc khu cư ngụ rộng lớn của Sir Chumilal Mehta trên Ridge Road. Krishnamurti đi vào mặc trong một dhotti viền đỏ, một kurta trắng tinh, và một angavastram. Cởi sandals ra, anh ngồi tư thế kiết già trên một cái bục, lưng của anh thẳng băng và không cử động. Quay đầu qua lại, anh nhìn năm trăm người ngồi trên mặt đất hay trên ghế trước mặt anh. Trong số họ là những khất sĩ, những người thuộc Tổ chức Thông thái cũ, vài giáo sư, và một ít những người thuộc phong trào đấu tranh cho tự do đội mũ loại vải khadi. Có ít người trẻ; nhưng những người kinh doanh giàu có của Bombay, những bạn bè của Sir Chunilal, đều hiện diện.

Trong những năm đầu tiên đó, Krishnamurti lột trần những người giàu có. Anh sẽ nói, “Bạn không thể lẫn lộn thượng đế và tiền bạc. Sự thật không dành cho cái người thọc bàn tay của anh ấy vào túi của người hàng xóm – cái người trục lợi và nhét đầy quả tim của anh ấy bằng những của cải của quả đất.” Cái nhìn chằm chằm của Krishnamurti cuốn hút những người lắng nghe của anh vào một phạm vi hợp nhất của sự chú ý. Nhưng nó không do bởi một cái nhìn mà đã phân loại như một nhóm người riêng biệt. Sự chuyển tải trực tiếp tỏa ra từ Krishnamurti thiết lập sự hiệp thông cùng cá thể của những người đàn ông và đàn bà; mỗi người đều cảm thấy rằng Krishnamurti đang nói chuyện với một mình cô ấy hay anh ấy. Trong những năm đầu tiên đó, vai trò của Krishnamurti là vai trò của một người bạn, cầm tay của người đàn ông đang đau khổ và dạo bộ cùng anh ấy qua những con đường hẻo lánh và những chiều sâu của cái trí, của suy nghĩcảm thấy. Anh chuyển động từng bước một, cùng sự kiên nhẫn vô hạn, mở toang vấn đề, dò dẫm, thâm nhập, lột bỏ tất cả những chạy trốn khỏi sự kiện. Chỉ bảo người lắng nghe quan sát, như trong một cái gương, sự đau khổ, sự tức giận, sự sợ hãi, sự cô độc. Chỉ bảo anh ấy nghỉ ngơi trong không gian giữa những suy nghĩ – chuyển động từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác; để thấy, khi bị đẩy đến tận gốc rễ của nó và cái nguồn của nó, suy nghĩ tan biến trong nguyên nhân của sinh ra nó.

Trong khi đang nói, Krishnamurti không những nhận biết được những người đang lắng nghe những từ ngữ mà anh đang nói, nhưng còn nhận biết được việc gì đang xảy ra quanh anh – những con chim đang líu lo, một chiếc lá đang rơi, âm thanh của một cây sáo đang thổi ở xa xa. Có một đồng thời của sự nhận biết, một đang thấy, đang lắng nghe bao gồm tất cả, mà không ngăn cản những việc đang xảy ra bên ngoài hay những việc đang xảy ra bên trong, nhưng cho phéptrôi chảy qua cái trí, đến độ không thứ gì bị loại trừ, không thứ gì là một xao nhãng. Duy nhất con sông đang chảy của sự hiện diện, của “cái gì là.”

Nhiều người đang nghe anh lần đầu tiên. Định nghĩa về từ ngữ của anh đã hoàn toàn thay đổi, và thậm chí những người như Sanjeeva Rao, đã ở cùng anh nhiều năm, phát giác rằng hiểu rõ anh thật khó khăn. Điều gì anh nói có vẻ đơn giản. “Tôi sắp sửa nói ‘Cái gì là’ và tôi sẽ theo sát chuyển động của ‘Cái gì là.’ ” Tiếp theo đến khán giả, “Hãy theo sát không phải những từ ngữ của tôi, nhưng chuyển động của suy nghĩ, cái đang năng động trong bạn.” Khi công nhận sống “như là,” kết thúc sự xung đột. “Đang thấy của ‘Cái gì là’ là sự tự do của ‘Cái gì là’.”

Bị bịt kín bởi những từ ngữ và những ý tưởng, và bị trói buộc trong cái bẫy của đang trở thành, những cái trí của những người lắng nghe K, mà chưa bao giờ “đã thấy” một cách trực tiếp sự suy nghĩ khi nó vận hành – sự chuyển động của nó, những phức tạp của nó, và những không gian nó tạo ra khi nó chuyển động – đấu tranh để hiểu rõ. “Liệu tôi mà là kết quả của quá khứ có thể – tôi có thể vượt khỏi thời gian?” Krishnamurti hỏi. “Bạn có thoát khỏi thời gian khi bạn quan tâm lạ thường. Bạn hoàn hảo dễ dàng – không phải thuộc thời gian tuần tự nhưng thuộc tâm lý – trong sự tồn tại không thời gian đó.”

Trong những năm đầu tiên đó, Krishnaji hiếm khi thừa nhận một vị trí đối đầu trực tiếp với “Cái tôi,” cái thực thể vị kỷ. Anh không bao giờ nêu ra nghi vấn, “Tôi là ai?”; ngược lại, anh tiếp cận “Cái tôi” qua phủ nhận những phát triển quanh cái tôi, những phẩm chất mà kết hợp lại để hình thành “Cái tôi” và trao cho nó sự thực tế. Sự phủ nhận này, sự tan rã của bản chất và những phẩm chất, dập tắt ý muốn của sự suy nghĩ mà nhờ đó “Cái tôi” hiển hiện và nhờ đó chính cái tôi tự tiếp tục. Sự nhận biết và phủ nhận của tất cả đang trở thành thuộc tâm lý là sự kết thúc của suy nghĩ, của thời gian, và của yếu tố cơ bản của “Cái tôi.”

Khi thấy bản chất của cái trí và cấu trúc của nó và những lực lượng đã vận hành trong ý thức của con người, những thấu triệt nảy ra: Chính bản chất của cái trí và sự suy nghĩ làm giới hạn chúng ta và là nguyên nhân của ngục tù và đau khổ của chúng ta. Đối với K, tất cả những nỗ lực để thay thế hay thay đổi tại mức độ của nội dung và ý nghĩa, một chuyển động bên trong cánh đồng của những đối nghịch, dù tốt nhất cũng chỉ là một đáp án từng phần, không thể giải quyết được những thôi thúc cơ bản và phức tạp lạ lùng mà lắng đọng tại những chiều sâu của cái trí.

Những vấn đề thách thức con người có thể kết thúc, không phải bằng những lý tưởng mà đã chiếu rọi một thay đổi dần dần của đau khổ thành hạnh phúc, tham lam thành tình yêu, nhưng bằng một đột biến trong bản chất của nền tảng mà từ đó đau khổ bám rễ. Vì vậy, sự thay đổi hay đột biến không ở trong chất lượng hay mức độ, nhưng trong bản chất, cấu trúc, và kích thước.

Được hiểu theo nghĩa thông thường, lời giảng của Krishnamurti thay đổi ngay tại sự định hướng của vấn đề của con người. Nó liên quan đến một cách mạng tại tâm điểm của ý thức con người và sự phát hiện về một liên hệ suy nghĩ-không gian mới mẻ – để cho cái trí, đang chuyển động trong một kích thước nhân-quả, thời gian-không gian thuộc chiều dài, tự đổi ngược hướng và một đồng thời của sự nhận biết thuộc giác quan nảy ra. Đồng thời này, bằng chính sự vận hành của nó, phủ nhận bất kỳ thực thể tự cho mình là trung tâm nào. Nó đã thức dậy những khả năng và những dụng cụ mới mẻ của thâm nhập, một năng lượng mới mẻ đã được bắt đầu vận hành, đang phủ nhận những giới hạn.

Krishnaji nói, “Chỉ sự thật mới hoàn toàn cởi bỏ tình trạng bị quy định. Muốn nhận biết sự thật, phải có đang tập trung của sự chú ý. Điều này không có nghĩa lẩn tránh khỏi xao nhãng. Không có sự việc như xao nhãng, bởi vì sống là một chuyển động và phải được hiểu rõ như một tiến hành tổng thể.”

K đang nói chuyện với một số khán giả mà suốt một thế kỷ đã được giáo dục trong những trường học nói tiếng Anh và được nuôi nấng trên những lý tưởng dân chủ của phương Tây, cùng sự nhấn mạnh của nó vào quyền bầu cử và một xã hội theo chủ nghĩa bình đẳng. Những nguyên tắc mà Hiến pháp Ấn độ đang được hình thành sẽ dẫn dắt đến một sôi sục vô cùng bên trong tất cả những ngõ ngách của xã hội. Những người bị thiệt thòi về quyền lợi sẽ từ từ nhận biết được quyền hành họ có được. Kèm theo việc này, một thay đổi mau lẹ và làm xơ cứng những cấu trúc của giai cấp. Những áp lực sẽ chồng chất trong những năm sắp tới. 

Cái trí của Ấn độ, bị giam giữ trong những thế kỷ của thần thoại, biểu tượng, quan tâm đến “cái khác lạ,” trong giữa thế kỷ hai mươi đã được tô điểm bởi những lý thuyết của những người triết lý xã hội Ấn độ của những thế kỷ thứ mười chín và hai mươi; vì đang phản đối chống lại những mê tín và những tăm tối đã xói mòn tinh thần Ấn độ, họ đã chấp nhận một vỏ ngoài của tình trạng bị quy định của phương Tây để che đậy những thế kỷ ầm ĩ của truyền thống. Những lực lượng và những năng lượng của quá khứ cổ xưa, trí tuệ của nó và bạo lực của nó, nằm ngủ im lìm và không được khai phá. Kèm theo sự tự do, con nguời hướng tới những người lãnh đạo, cả chính trị lẫn tôn giáo, để chỉ ra con đường; họ không thể hiểu rõ nhịp độ thay đổi và những lực lượng gây bùng nổ mà chẳng mấy chốc sẽ tàn phá những phương cách sống truyền thống của họ và những giá trị của họ. Sự đòi hỏi thay đổi xã hộiẤn độ đã gây ra một quan tâm đang tán dương cho “nhiều hơn” trong những bộ phận nào đó của xã hội. Và phía bên trong và hòa nhập vào sự quan tâm này là một phân phối lại sự giàu có. Nhưng, bên trong một cấu trúc dân chủ, sự xô đẩy để có “nhiều hơn” không thể bị giới hạn trong những nhu cầu hợp pháp của những người bị thiệt thòi về quyền lợi, nhưng thẩm thấu vào sự quy định của con người; chắc chắn, nó dẫn đến sự giải phóng của những sức mạnh lúc trước bị kiềm hãm bởi những liên hệ truyền thống, cùng những bóc lột của chúng nhưng cũng còn cả cùng những trách nhiệm của chúng. Được liên kết đến việc này, những áp lực bị sinh ra bởi một dân số đang gia tăng mau lẹ và sự leo thang nhanh chóng trong những máy móc để có thể theo kịp những tiến bộ trong công nghệ. Một chuyển hướng om sòm đến những giá trị và những thái độ vật chất sẽ bão hòa xã hội và những liên hệ Ấn độ. Những người mới giàu có – những người chủ đất và những người tư bản công nghiệp – những nhóm quyền hành đang trỗi dậy của “những người chậm tiến,” và một tổ chức chống đối xã hội đang phát triển nhanh đã đấu tranh đòi hỏi những công nhận của giàu có và quyền hành.

Phương Tây hậu chiến cũng đang bị hỗn loạn, chiến tranh đã sinh ra những tài nguyên vô tận của vật chất và khoa học, và những chuyên gia về kỹ thuật được đào tạo để sáng chế những dụng cụ hủy diệt đã phải tìm ra những con đường mới cho những kỹ năng của họ. Chẳng mấy chốc, khoa học điều khiển tự động đã trưởng thành và những dụng cụ tự động đang hình thành trên những bản vẽ. Đến cuối những năm 1940 người ta có thể thấy những khích động của việc gì sẽ đến. Tại mức độ vật chất, có vẻ con người sẵn sàng để thống trị thế giới – tất cả những vấn đề dường như đều có thể giải quyết được.

Một khía cạnh dễ dàng nhận thấy của hiện tượng hậu chiến là sự sản xuất vũ khí chiến tranh và một dồn dập hàng hóa tiêu thụ (tập trung vào những nền kinh tế phục vụ cho những người chế tạo đồ phế liệu) và những dụng cụ được chế tạo để trở thành lỗi thời. Cùng với nó là một tập trung vào sự sáng chế của kỹ nghệ giải trí, kèm theo những đồ dùng và những vật dụng linh tinh trong nhà sẽ tràn ngập những chợ búa và những cái trí của đàn ông, đàn bà, và đứa trẻ.

Năm 1947, sự ảnh hưởng vào Ấn độ của phương Tây và những công nghệ đang bùng nổ vẫn còn rất nhỏ. Thảm kịch của sự chia cắt và hậu quả của nó đã chấn động những nền tảng của mọi con ngườisuy nghĩ. Nhưng đây chỉ là những báo hiệu nhỏ nhoi trên bề mặt mà sẽ bộc lộ sự hỗn loạn và bạo lực trong tương lai. Krishnamurti, cùng tầm nhìn sâu thẳm của người thấy, nắm bắt được những hỗn loạn đang sôi sục này. Anh đang thận trọng dò dẫm vào vùng đất Ấn độ, khoét sâu vào những cái trí của những người đàn ông và đàn bà, đang quan sát, đang chất vấn, đang thăm dò môi trường sống, đang tham gia vào những căng thẳng và những mâu thuẫn mà sẽ xói mòn cái trí và quả tim. “Ngôi nhà đang cháy,” anh tha thiết nói cho những người lắng nghe – nhưng sự mãnh liệt và sự khẩn thiết không hiện diện nơi những người nghe anh.

Những thấu triệt cơ bản tập trung trong lời giảng đã được sinh ra từ sự quan tâm tha thiết của anh và sự nhận biết vô hạn của anh.

Con người – không phải trong trừu tượng, nhưng trong “cái tôi,” thực thể vị kỷ trong sự liên hệ của anh ấy với một người khác – tạo ra xã hộithế giới. “Bạn là thế giới” là một nguyên lý cơ bản của lời giảng. Hành động thuộc chính trị và xã hội không bao giờ có thể thay đổi thế giới tại gốc rễ của nó nếu cá thể không tự thay đổi chính anh ấy tại cơ bản. “Những hệ thống không bao giờ có thể thay đổi con người, con người luôn luôn thay đổi hệ thống,” K nói. Khi được chất vấn về sự vô vọng của cá thể đơn độc khi muốn thay đổi xã hộithế giới, Krishnamurti trả lời rằng khối lượng nước đang gầm thét của con sông Ganga đang bị lũ lụt, tại nguồn của nó là một giọt nước đơn độc, và rằng tất cả những hành động chủ yếu đã thay đổi con nguời đều đã được sinh ra từ một con người đơn độc.

Sự thay đổi của cá thể không là một tiến trình từ từ. Thay đổi là một tức khắc – chính là tích tắc mà con người đã thấy chính anh ấy trong cái gương của sự liên hệ – cùng con người, thiên nhiên, và cùng chính anh ấy. Nói về sự liên hệ, Krishnamurti sử dụng những ví dụ mật thiết nhất: sự liên hệ của người chồng và người vợ; người chủ và người thợ. Mặc dù nhiều người lắng nghe đã bị bực dọc bởi sự kiên định của Krishnamurti khi nói về sự đạo đức giả nằm dưới những liên hệ này, họ sẽ nhận ra sự thật về những thấu triệt của anh. Anh nói rằng “đang thấy” mà không có bất kỳ chuyển động nào để làm biến dạng hay thay đổi cái gì đã được thấy chỉ có thể xảy ra khi hoạt động định hướng của người thấy đã kết thúc. Đây là tích tắc của sự đột biến; sự sanh ra của những thấu triệtluân phiên thay đổi xã hộisáng tạo một thế hệ mới mẻ. Sự thay đổi thực sự không là kết quả của bất kỳ cách mạng nào thuộc cánh tả hay cánh hữu, nhưng là một cách mạng từ những giá trị thuộc tri giác sang những giá trị đó mà không là kết quả của sự ảnh hưởng môi trường sống.

Có sẵn trong sự tức khắc của đột biến là những thấu triệt của Krishnamurti vào thời gian. Anh đã nhận biết rằng “cái đang sắp sửa là” và “cái đang chấm dứt là,” hay cây non đang lớn lên thành cây bồ đề, dính dáng đến thời gian thuộc chiều dài, là không thể chối bỏ trong tiến hành của sự sống. Năng lượng bị giam giữ trong vật chấtlệ thuộc vào những quy luật của thời gian như một mũi tên là vô trật tự – nó phải tàn tạ, phân hủy, và kết thúc. Krishnamurti nói, “Có một thời gian tuần tựthời gian của cái trí. Thời gian mà là chính cái trí. Có sự lẫn lộn giữa hai. Thời gian tâm lý là một qui trình của đang trở thành.” Thời gian như đang trở thành này, “tôi sẽ là,” được sinh ra từ ảo tưởng và là một hiện thân của “cái tôi”; cả tự-nuôi dưỡng lẫn tự-tạo ra năng lượng, đang tự-duy trì và đang tự-nâng đỡ chính nó qua sự dốt nát riêng của nó, bằng qui trình này, đang lưu trữ năng lượng tiềm tàng của nó như ý thức. Ý thức này được nhận biết bởi cá thể qua sự vận hành của những giác quan.

“Cái tôi” như sản phẩm của thời gian tâm lý, đang tự biểu lộ chính nó như sự suy nghĩ, không thể hành động để thay đổi hay làm tự do chính nó. Chỉ qua một tiếp cận phủ định, sự nhận biết và sự phủ nhận của tất cả suy nghĩ thuộc tâm lý – như một ham muốn để thay đổi “cái gì là” thành “cái gì nên là” – mới có thể có sự nhận biết hiệp thông của “cái gì là” và một tự do khỏi thời gian được sinh ra từ cái tinh thần.

Trong trạng thái của đang nhận biết này, cái trí không đang sử dụng sự suy nghĩ để tự làm sống lại chính nó. Cũng không có người suy nghĩ lẫn suy nghĩ, cũng không có người trải nghiệm lẫn trải nghiệm. Cái trí bị trói buộc trong đang trở thành là sản phẩm của thời gian, mà đã tự thay đổi chính nó. Từ tiếp cận này, đang nảy ra từ sự phủ nhận điều giả dối khi nó phát sinh, trỗi dậy sự thật lạ thường mà đang thấy và đang lắng nghe sự kiện một cách hiệp thông – một cách hồn nhiên, mà không có suy nghĩ đang tìm kiếm để sửa đổi hay thay đổi sự kiện, một không-vận hành của suy nghĩý muốn vào những gốc rễ sâu thẳm của hận thù, tức giận, tham lam, sợ hãi – làm tan biến trạng thái. Có một đột biến trong bản chất của vấn đề như tức giận hay sợ hãi và sự giải phóng của một năng lượng bị giam giữ trong những trạng thái, một năng lượng không bị vấy bẩn bởi thời gian và, thế là, không phụ thuộc vào những quy luật của nó. Trạng thái này không liên quan, nó cũng không là đối nghịch của hận thù, tức giận, hay sợ hãi. Đưa ra vấn đề dựa vào những đối nghịch, như lý tưởng, là trò ma mãnh mà cái trí đùa giỡn để tự-tiếp tục chính nó; bởi vì lý tưởng chứa đựng bên trong chính nó hạt giống của đối nghịch riêng của nó. Chỉ một nhận biết tổng thể, không phân chia mới có thể xóa sạch người quan sát và vật được quan sát. Đang thấy của “cái gì là,” là đột biến của “cái gì là.”

Sự suy nghĩ tách rời cái trí khỏi quả tim. Cái trí, cùng những gốc rễ của nó trong hoạt động tự quan tâm, dẫn đến một gia tăng trong những giá trị vật chất và đang làm cạn kiệt dần dần những nhân tố cốt lõi và những phản ứng mà nuôi nấng nhân loại này.

Sự phủ nhận tình yêu là khuynh hướng hủy diệt trong con người. Chỉ khi nào cái trí yên nghỉ trong quả tim và hoạt động tự quan tâm được xóa sạch hoàn toàn thì lòng nhân đạo có sự nở hoa riêng của nó.

Sự khai quang những ngõ ngách bí mật của cái trí và sự nảy sinh của thấu triệt hiện diện một cách tự nhiên cho Krishnamurti. Giống như thế, thật dễ dàng, đầy bao dung, anh có thể mở cánh cửa và nói, “Nhìn kìa. Nhận đi. Nó ở đó, tại sao bạn ngần ngừ?”

Nhờ vào những tháng ở Bombay mà sự đối thoại như một dụng cụ cơ bản cho sự thâm nhập lời giảng của Krishnamurti được sinh ra. Qua những năm tháng, nó sẽ nở hoa trong tinh tếthấu triệt. Trong những năm đầu, những bàn luận nhóm được thực hiện trong hình thức câu hỏi và trả lời. Trong những bàn luận, sự chính xác và sự thâm nhập thông suốt vào những chiều sâu giấu giếm của cái trí như là sự kiện hiển nhiên đã không xảy ra.

Những bàn luận đầu tiên ở Bombay năm 1948 bị rối loạn và phân tán. Một câu hỏi được đưa ra cho Krishnamurti. Cái trí linh động của anh thâu nhận câu hỏi và đáp lại nó, thách thức người hỏi và nhóm người phải thâm nhập đáp án phía bên trong lãnh vực của hiểu rõ về chính mình. K nói chầm chậm, cùng nhiều ngắt giọng, dồn về phía trước như thể mỗi trả lời là lần đầu tiên. Anh lắng nghe những phản ứng của anh bằng cùng sự cởi mở và thâu nhận như anh lắng nghe giọng nói của người hỏi. Năng lượng của trả lời của anh được gặp gỡ bởi những cái trí đang đấu tranh, đang vật lộn với sự rối loạn, bị quy định để trả lời từ ký ức và bị quy định để tìm kiếm sự giải đáp từ một uy quyền cao hơn, phía bên trong hay phía bên ngoài, thuộc tinh thần hay thuộc thế gian. Chúng tôi phát giác rằng hiểu rõ cách nói chuyện của Krishnaji rất khó khăn. Chúng tôi căng sức để hiểu rõ những từ ngữ của Krishnaji và vận dụng chúng cho những cái trí riêng của chúng tôi. Chúng tôi gắng sức để phỏng chừng, để vượt khỏi những từ ngữ bằng những dụng cụ duy nhất của sự tìm hiểu sẵn có – ký ức và sự suy nghĩ. Nhưng đây lại chính là những dụng cụ đang bị thách thức, và có một ý thức của ngơ ngác. Những manh mối đang tan biến dần dần và cái trí, đang bám vào những từ ngữ, là một trận chiến của tuyệt vọngxung đột.

Krishnaji liên tục lặp đi lặp lại về đang thấy “cái gì là,” sự thật, và không phải “cái gì nên là,” ảo tưởng; về sự cần thiết cho con người tự thay đổi chính anh ấy trước khi anh ấy có thể thay đổi xã hội, bởi vì anh ấy là xã hội. Anh nói về giải thoát khỏi ký ức; ký ức mà kháng cự và biến dạngngăn cản sự hiểu rõ về hiện tại, ký ức mà là ý thức “cái tôi,” và về bản chất của “đang là” và “đang trở thành.” Trong những bàn luận, Krishnaji từ chối đưa ra một đáp án tức khắc, một giải pháp dễ dàng. Đối với K, bất kỳ phản ứng nào đối với một nghi vấn cơ bản đều kết thúc sự thăm dò vào nghi vấn đó. Anh đòi hỏi một tìm hiểu, một đang thấy và thâm nhập vào chính nghi vấn; không phải như một qui trình phân hai phía bên ngoài, nhưng đang thấy cả bản chất của phản ứng lẫn nền tảng từ đó nghi vấn và đáp án nảy sinh. Ngừng lại, suy nghĩ, là sự thức dậy của cái trí “đang lắng nghe” và “đang thấy” mà tiêu hủy ảo tưởng của phía bên ngoài và phía bên trong, đang thức dậy một trạng thái mà có thể xử lý nghi vấn.

Những bàn luận thâm nhập từ từ. K chuyển động từ suy nghĩ sang suy nghĩ, đẩy, chặn, lui, tiến. Trong chính chuyển động của quan sát từng bước sang từng bước của cái trí, qui trình suy nghĩ chậm lại cho đến khi, trong một tích tắc, những nhận biết của những người tham gia thức dậy và có sự hiệp thông trực tiếp của sự nhận biết cùng cái trí và tình trạng thay đổi liên tục của nó. “Đang thấy” đầu tiên của cái trí là điểm khởi đầu của sự thâm nhập. Nó là đầu mối mà gỡ rối và phơi bày và, ngay trong đang phơi bày đó, khai sáng nghi vấn và đáp án.

Những người thâm nhập cùng K đang khám phá cấu trúc và bản chất của ý thức và tính kiên cường lẫn sức mạnh vô cùng của qui trình suy nghĩ. Trong “quan sát” chuyển động của cái trí bị trói buộc và “thấy” sự không thỏa đáng riêng của nó có sự kích thích và sự kinh hãi của khám phá, của vào một một vùng đất chưa được vẽ trên bản đồ.

Suy nghĩ bị nhốt trong những khe rãnh, không thể phá vỡ ngục tù riêng của nó. Bằng cách bàn luận, thấy, quan sát, thách thức, và nghi ngờ; những khe rãnh trong đó suy nghĩ chuyển động và qui trình của trở thành được sinh ra, đang bị tiêu tan.

Một phương pháp mới mẻ được sinh ra từ đang thấy và đang lắng nghe đang bộc lộ, những nhận biết mới mẻ đang thức dậy. Một nền tảng của quan sátthâm nhập đang được thiết lập. Năng lượng được sinh ra bởi nghi vấn không bị cho phép hao tán trong những phản ứng và những trả lời phản xạ mà nảy sinh từ kho lưu trữ của ký ức. K đang thách thức những cái trí của những người tham gia. Mỗi tế bào trong thân thể và cái trí của K đều được thức dậy. Đang chất vấn không ngưng nghỉ của anh mở toang cái tinh thần; và khi sức lựctinh thần chung của những người nghe trở nên vững chắc, luân phiên cái trí của K được thách thức một cách thăm thẳm. Trong ngay đang thách thức của K, kia kìa nảy ra những thấu triệt quý báu vào tình trạng bị quy định của con người.

Như một antenna, cái trí của K tỏa ra ngoài để cảm giác những cái trí của những người tham gia. Khi bàn luận bị sa lầy hay nhóm người đi vào những lý luận vô íchbàn luận không đem lại kết quả, cái trí của K sẽ lao vào thật nhanh, cứu bàn luận khỏi bị lún sâu. Anh giới thiệu vào bàn luận bản chất của tình yêu, chết, sợ hãiđau khổ; những cảm giác và những tình huống ở bề mặt và quả tim; và bỗng nhiên bàn luận hiệp thông trực tiếp, rành rành cùng vấn đề.

Sự đột phá trong những bàn luận bắt đầu vào một buổi sáng năm 1978, khi Rao Sahib Patwardhan nói rằng những lý tưởng và những niềm tin dẫn dắt anh ấy vào sự đấu tranh thuộc chính trị đã tan thành mây khói đối với anh ấy. Anh ấy bị đối diện một bức tường trắng xóa và cảm thấy rằng thời gian đã đến cho anh ấy để rà soát lại những niềm tin cơ bản. Sau đó anh ấy hướng về Kishnaji và hỏi anh có ý gì qua cụm từ “đang suy nghĩ sáng tạo.” Krishnaji, đang ngồi yên lặng, đang chú ý lắng nghe Rao Sahib, bật chân đứng dậy và ngồi xuống kế cận anh ấy. Nghiêng về phía trước, anh hỏi, “Bạn muốn thâm nhập nó, thưa bạn, và thấy liệu bạn có thể trải nghiệm trạng thái suy nghĩ sáng tạo ngay lúc này?” Rao bị bối rối và nhìn K, không thể hiểu rõ anh đang nói gì.

K bắt đầu, “Làm thế nào người ta suy nghĩ?” Rao trả lời, “Một vấn đề nảy sinh, và gặp gỡ vấn đề đó những suy nghĩ nảy ra.”

K hỏi, “Bạn cố gắng giải quyết một vấn đề như thế nào?” “Tìm ra một đáp án,” Rao nói.

“Làm thế nào bạn tìm ra một đáp án và làm thế nào bạn biết rằng nó là đáp án đúng? Chắc chắn bạn không thể thấy toàn nội dung của vấn đềvậy thì làm thế nào đáp án của bạn có thể là đáp án đúng? ”

“Nếu lần đầu tiên tôi không tìm được đáp án đúng, tôi thử những cách khác để tìm được nó,” Rao trả lời.

“Nhưng dù bạn cố gắng tìm ra một đáp án bằng bất kỳ cách nào, nó sẽ chỉ là một đáp án từng phần, và bạn cần một đáp án trọn vẹn. Vậy thì làm thế nào bạn sẽ tìm được một đáp án trọn vẹn?” K đang khóa lại tất cả những chuyển động của cái trí – từ chối xoa dịu năng lượng bị nhốt trong nghi vấn.

“Nếu tôi không thể thấy vấn đề một cách trọn vẹn, tôi không thể tìm được đáp án đúng,” Rao đáp lại.

“Thế là bạn không còn đang tìm kiếm một đáp án đúng nữa.”

“Không.”

“Bạn đã bịt lại tất cả những hướng đang tìm kiếm một đáp án.”

“Vâng.”

“Trạng thái của cái trí của bạn là gì khi nó không còn đang tìm kiếm một đáp án?”

Cái trí riêng của tôi hoàn toàn trắng xóa, nhưng đây không là điều gì anh đang nhắm đến.

Vài ngày sau trong một bàn luận, K nói về ký ức như ý thức của “cái tôi,” nhân tố đang gây biến dạngcản trở hiểu rõ của hiện tại đó. Anh tách rời ký ức thuộc sự kiện khỏi ký ức thuộc tâm lý – “cái tôi” sẽ là, “cái tôi” nên là. Sau đó, anh hỏi, “Liệu chúng ta có thể sống mà không có ký ức thuộc tâm lý?”

Bàn luận thâm nhập chầm chậm, và tôi hết hứng thú. Cái trí của tôi vọt đi trong theo đuổi ham muốn nào đó. Tôi càng cố gắng tập trung vào chủ đề nhiều bao nhiêu, cái trí của tôi càng trở nên náo loạn nhiều bấy nhiêu. Tôi quá phẫn nộ đến độ tôi thả cho nó lang thang. Chẳng mấy chốc, tôi phát hiện rằng nó đã ổn định, và sáng hôm đó, lần đầu tiên tôi đã lắng nghe điều gì đang được nói. Giáo sư Chubb của Elphinstone College đã tham gia vào một vấn đề bàn luận, và tôi lắng nghe. Liệu ký ức có thể rơi rụng? Tôi tự hỏi mình. Tôi đã không muốn được tự do khỏi nguyên tắc “cái tôi.” Tôi đã kết cấu nó rất kỹ càng; tại sao tôi phải tự do khỏi nó? Tôi sẽ bị lạc lõng.

Tiếp theo tôi cảm thấy tò mò muốn tìm ra liệu người ta có thể buông bỏ ký ức. Có một rõ ràng tức khắc. Tôi bắt đầu nhìn ngắm cái trí của tôi. K đang hỏi, “Các bạn có thể làm gì, thưa các bạn? Các bạn đang đối diện một bức tường trắng xóa. Các bạn không thể chỉ để nó lại, các bạn phải làm cái gì đó.” Trong một lóe sáng, tôi nói: “Buông bỏ ký ức.” Bỗng nhiên cái trí của tôi rõ ràng. K nhìn thẳng vào tôi. Sự rõ ràng lắng sâu thăm thẳm.

“Tiếp tục,” anh nói, “Trạng thái cái trí của bạn khi bạn buông bỏ ký ức là gì?” Như thể là năm mươi người ở đó biến mất, và chỉ có K cùng tôi. “Cái trí của tôi bất động,” tôi nói. Bỗng nhiên tôi cảm thấy nó – một chất lượng quá uy lực, quá mềm dẻo, quá mau lẹ và sinh động. Anh mỉm cười và nói, “Mặc kệ nó, theo chầm chậm, đừng làm tổn thương nó.” Những người khác cố gắng chen vào để nhận được cái gì tôi đã trải nghiệm, nhưng K nói, “Mặc kệ nó một mình, nó mong manh lắm, đừng trấn áp nó.” Khi tôi rời gặp gỡ, anh theo cùng tôi ra cửa và nói, “Bạn phải đến gặp tôi, chúng ta phải nói về nó.” Tôi có cảm giác cái trí của tôi đã được lau chùi sạch sẽ.

Khi sự mãnh liệt và rõ ràng được sinh ra trong đối thoại trở nên hiển nhiên, chúng tôi háo hức tiếp tục. Và vào những ngày khi những nói chuyện trước công chúng không được tổ chức, chúng tôi gặp gỡ và bàn luận cùng K. Hầu hết những vấn đề nảy sinh đều liên quan đến sự khẩn cấp của hành động đạo đức trong khi đang tồn tại một xã hội hỗn loạn, và chỉ đến sau này những vấn đề cơ bản của con người – ganh tị, tham vọng, sợ hãi, đau khổ, chết, thời gian, và sự phiền muộn của trở thành và không thành tựu – sẽ hiện diện và tìm được sự diễn đạt.

Trong những năm sau đó, K đã viết, “Bất động sau khi cày bừa và gieo hạt, là tạo mầm cho sự sáng tạo.”

Khi những bàn luận tiến tới qua những năm tháng, những tìm hiểu thuộc phân tích khác nhau được thực hiện; từ tốn và thăm dò. Chúng tôi thâm nhập mà không tìm kiếm đáp án tức khắc; trái lại, chúng tôi phát triển một quan sát từng bước một về qui trình của sự suy nghĩ và sự bộc lộ của nó – thâm nhập và thối lui, mỗi chuyển động thúc đẩy sự chú ý mỗi lúc một sâu thẳm hơn vào trong những ngõ ngách của cái trí. Một chuyển tải không từ ngữ, tinh tế đã xảy ra; một phơi bày của chuyển động tiêu cực khi nó gặp gỡ chuyển động tích cực của sự suy nghĩ. Có “đang thấy” của sự kiện, của “cái gì là,” sự giải phóng của năng lượng bị nhốt chặt trong “cái gì là,” mà là sự đột biến của “cái gì là.” Lại nữa, điều này được nhận biết từ những phương hướng khác nhau để tìm hiểu giá trị đúng đắn của nó.

Bản chất của phân hai và không-phân hai được phơi bày trong ngôn ngữ đơn giản. Trong trạng thái của đang thâm nhập đó – một trạng thái nơi người thâm nhập, người trải nghiệm đã kết thúc – trong một lóe sáng, “sự thật” được phơi bày. Nó là một trạng thái của không-suy nghĩ tuyệt đối, sự kết thúc của phân hai. Tại cuối của bàn luận, nhiều người trong chúng tôi cảm thấy như thể những cái trí của chúng tôi đã được tẩy rửa sạch sẽ lại.

Trong những năm sau, K sẽ nói về những bàn luận này, “Cái trí mà là con thuyền của chuyển động, khi chuyển động không có hình dạng, không ‘tôi,’ không tầm nhìn, không hình ảnh, nó hoàn toàn yên lặng. Trong nó không có ký ức. Lúc đó những tế bào não trải qua một thay đổi. Những tế bào não quen thuộc với chuyển động trong thời gian. Chúng là cặn bã của thời gianthời gian là chuyển động; một chuyển động trong không gian mà nó tạo ra khi nó chuyển động…Khi không có chuyển động, có sự tập trung lạ thường của năng lượng. Vậy là thay đổi là sự hiểu rõ của chuyển động và sự kết thúc của chuyển động trong chính những tế bào não.”

Sự bộc lộ của khoảnh khắc đột biến của “cái gì là” trao tặng một kích thước hoàn toàn mới mẻ đối với toàn lãnh vực của sự thâm nhập thuộc tôn giáo và thuộc trí năng.

Vài năm sau, tôi nói với Krishnaji, “Khi có một bàn luận cá nhân cùng anh, người ta được phơi bày ra một trạng thái trống không. Nó giống như đối diện với cái gì đó trống không hoàn toàn. Không có gì cả ngoại trừ ‘cái gì là’ như được phản ảnh trong chính người ta. Anh quẳng lại vào người đó một cách chính xác ‘cái gì là.’ ”

K trả lời, “Đó là điều gì lúc trước Aldoux thường nói. Nhưng khi K quẳng lại, nó là cái của bạn.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10660)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11121)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9616)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10511)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12114)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9767)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10258)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10282)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19265)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14718)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24410)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15463)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10423)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21588)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10293)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19384)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11415)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18793)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9336)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15983)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25766)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37942)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19709)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18806)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14394)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20212)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9585)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14441)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35706)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10731)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19809)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23292)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13431)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20321)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10692)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9675)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9262)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8554)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9806)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11266)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14199)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9971)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15303)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12679)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11417)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12141)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11111)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36503)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9028)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17356)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10537)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12263)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13734)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9217)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24972)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11709)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10382)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14600)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13088)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant