Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh thần giáng đản

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11581)
Tinh thần giáng đản


Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng. Sự thực ấy không chỉ xác định được nhân cách cho con người mà còn là chuẩn mực để nhận định nhân cách của thánh nhânphàm nhân. Một sự khác biệt chỉ nằm trong sát na của vọng niệm, bên mé bờ vô hình tướng của ngộ và mê, của giác và vọng, của chân và ngụy, của xả và chấp, và khoảng cách ấy là bao xa.

Trong lịch sử loài người có hơn một minh chứng hùng hồn về khả tính của con người có thể xả ly, có thể vượt qua, có thể quăng bỏ một cách dứt khoát để trở nên sáng lạn, chói lòa. Nhân cách ấy đã giành trọn cuộc đời mình rao giảng một nền giáo lý vô ngã, tạo tiền đề cho một nền triết học tôn giáo phi thường của phương Đông. Sự giác ngộ quán triệt về vô ngã ấy như cú nhảy thiện nghệ vượt hẳn qua bờ mé bên kia của dòng sanh tử khổ đau. Để mấy ngàn năm sau đồng vọng lời ca vang huyền thoại. Và vì thế, đã không biết tự bao giờ, nhân vật lịch sử ấy đã trở thành một nhân cách huyền thoại của con người như câu chuyện đản sanh.

Câu chuyện của tinh thần tâm linh phương Đông

Câu chuyện đản sanh bắt đầu từ chi tiết có thật của lịch sử, cách nay khoảng hai ngàn sáu trăm ba mươi lăm năm tại thành Kapilavatthu ở Ấn Độ (tức Nepal ngày nay), một buổi sáng tháng tư có một vị thái tử ra đời, bậc vương tôn ấy về sau đã làm nên huyền thoại phương Đông, và câu chuyện đản sanh được kể về nhân vật này sẽ sơ lược đại khái như vầy:

Nhận đến ngày lâm bồn đã đến, hoàng hậu Maya lên đường trở về quê nhà để hạ sanh đứa con đầu lòng như tập tục của xứ này. Khi Người và đoàn xa giá cung nữ tùy tùng đến vườn Lumbini thì Người bỗng nhiên chuyển dạ, một bậc bồ-tát phi phàm đã hạ sanh. Vừa lọt lòng mẹ, bồ-tát liền bước đi bảy bước trên bảy đóa hoa sen, đến bước thứ bảy, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời với lời tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý). Khi ấy đại địa chấn động, trời mưa cam lộ cúng dường, thiên nữ rãi hoa, nhạc trời tự trỗi, muôn hoa trong vườn đua nhau nỡ rộ chào mừng một bậc thánh giáng trần…

Câu chuyện huyền thoại ấy đã chứa đựng một nền minh triết của phương Đông, gắn với sự ra đời của một nhân cách siêu việthoa sen, là con số bảy, là sự có mặt của chư thiên địa và các thánh thần, là một câu nói gây ra nhiều sự bàn cải cho những ai còn lấn cấn giữa tính biểu trưng của huyền thoại hay ngôn ngữ trừu tượngsự thật lịch sử.

Súc tích một nền minh triết

Hoa sen, đó là sự tinh khiết được ví von như phẩm hạnh thanh cao của nhân cách Người, từ trong đầm lầy sanh tử đã vươn dậy nở hoa, tỏa hương, sắc tinh khôi và hương thanh thoát. Trong truyền thống tâm linh của con người phương Đông, mà dẫn đầu là người Ấn Độ, hoa sen là biểu trưng thanh cao cho cốt cách con người, sự ví von này là cách tôn xưng cao nhất có thể để người ta bày tỏ tình cảm, niềm tôn kính đối với một nhân cách thánh nhân.

Sinh ra với vị trí vương tôn, lớn lên từ cung vàng điện ngọc, trưởng thành với tùy tùng hầu hạ, với vợ đẹp con ngoan,... sống trong sự sung túc hoàn mĩ nhất của trần gian như thế nhưng con người ấy đã luôn băn khoăn: đây không phải là hạnh phúc cứu cánh của kiếp người, dù ở vị trí quyền lực nhất, giàu có nhất, hoàn hảo nhất thì vẫn không thể nào tránh khỏi những phiền não căn bản của chúng sinh. Và rồi đến một ngày Người ấy rũ bỏ xuống đất tất cả để vào rừng tìm câu trả lời cho sanh tửtrở thành một kẻ hành khất thực thụ trong xóm làng.

Ngài đã trở thành Buddha, một bậc giác ngộ đã vượt qua khỏi sự chi phối từ sức mạnh nghiệp lực phiền não sanh tử của chúng sanh. Đã xả ly một cách dứt khoát những thứ mà con người luôn hướng đến để bị cột vào, bị mê hoặc, bị trở thành nô lệ. Trong những cám dỗ của cuộc đời này, bậc giác ngộ ấy đã được mở trói, đã sáng trong, thanh thoát như một đóa sen trong đầm lầy, trong sanh tử trầm luân.

Bên cạnh hình tượng hoa sen trong sự kiện đản sanh là bảy bước đi kỳ diệu của bậc thánh. Một số nhà Phật học đã từng lý giải, sao là bảy bước chân mà không phải một, hai, ba, bốn hay năm, sáu. Đây là con số bảy của tứ phương-tam thời hay con số vượt ngoài số sáu của sáu nẻo luân hồi sanh tử như nhân cách của một bậc giác ngộ? dẫu với sự lý giải nào cũng nằm trong sự ước đoán của người học về sau. Chi tiết huyền sử ấy là sự kết tinh từ một chuỗi dài lời truyền và cảm tình tôn giáo qua nhiều thế hệ, là sự phản ảnh trung thực nhất về tình cảm và lòng kính ngưỡng đức Thế Tôn của con người Đông phương cách chúng ta hơn hai ngàn năm về trước.

Giá trị chân thực của con người qua hình tượng đản sanh

Vừa lọt lòng mẹ bồ-tát đã bước trên bảy đóa hoa sendõng dạc cất lời tuyên bố “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Dĩ nhiên, bậc giác ngộ là không có chúng sanh nào sánh được cho dù đó là chúng sanh tối thắng trời thần, bởi tôn quý như thế nên trời mới mưa cam lộ, thiên nữ mới cúng hoa, địa thần mới chấn động. Nhưng sự tôn quý sao lại không được cho là đã nói ra khi bồ-tát còn ở cung trời đâu suất, ở cảnh trời quý báu ấy dù chỉ nói “ta là tôn quý nhất cõi trời” thì cũng đẳng cấp hơn bởi chúng sanh cảnh trời tất nhiên hơn hẳn nhân gian.

Bồ-tát xác nhận đến nhân gian, làm người để tu thành chánh giác, ắt hẳn nhân gianđặc tính ưu việt, làm trung tâm thuận tiện cho bước chuyển cuối cùng từ mê đến giác, từ vọng đến chân, từ khổ đến niết-bàn, là nơi hội đủ điều kiện căn bản để hai dòng nghiệp thiện ác của thánh phàm tiếp nhận nguồn năng lượng chiêu cảm.

Bởi xác định thân người ở nhân gian có thể tu thành chánh giác cho nên bồ-tát giáng trần. Bởi sự giác ngộ tột cùng vượt ra ngoài sanh tử là điều không thể so sánh được trong sự phân biệt đẳng cấp của các loài chúng sanh cho nên được cho là tôn quý. Bởi thân người được cha mẹ sanh ra này đây có thể cho một hứa hẹn rằng có một chặng đường sống➝tu học➝giác ngộ, cho nên chính “ta”- nơi thân người này là tôn quý.

Nguồn gốc của truyền thuyết “bảy bước xưng tôn” dường như được tìm thấy sớm nhất trong tạng kinh Trường A-hàm hay Trường Bộ tương đương, với bài kinhĐại Bản, ở đó đức Thế Tôn nói về nhân duyên ra đời, thành đạo… của bảy đức Phật từ trong quá khứ, và ngài cũng không ngoại lệ, bởi đó là “pháp thường của chư Phật”. Và nguyên văn của ý kinh này như sau: “aggo ‘ham asmi lokassa, jeṭṭho ‘ham asmi lokassa, seṭṭho ‘ham asmi lokassa, ayam antimā jāti, natthi dāni punabhavo” [Ta là đấng tối thượng của thế gian, là tối thắng của thế gian, là tối tôn của thế gian. Đây là sự sanh cuối cùng, không còn đời nào nữa.]

Sau gần hai ngàn sáu trăm năm, ý kinh ấy cho con người của thế kỷ chúng ta nhiều khả tính để đoán định. Trong đó có thể nói, ắt hẳn yếu tố này được thiết lập nên từ quan điểm hướng về sự giác ngộ, chỉ có sự giác ngộ (Buddha) mới là điều đáng quý nhất trong các loài chúng sanh, chỉ có sự giải thoát phiền não mới là cứu cánh nhất trong sự sống này. Và điều đáng quý đó đang bắt đầu bằng chính thân người này đây. Bởi trong nền giáo lý nhân bản của Phật đà, luôn nhấn mạnh vai trò tối ưu của loài người trong sáu đường sanh tử hay nói khác hơn, nền giáo lý đặt trọng tâm vào sự thực nghiệm của chính bản thân con người, và nên làm gì ngay khi ta có thể. Vì rằng, hiện tại này là yếu tố cho ta quyết định các vấn đề.

Triết học Phật giáo là sự chắt lọc kết tinh nền giáo lý sống, được thực nghiệm và cảm nhận một cách sâu sắc tùy bởi căn cơ của con người đương thời, sức mạnh của sự thực nghiệm tôn giáo ấy là động lực để những câu chuyện ngày càng lung linh hơn, huyền thoại hơn cho đến khi nó được dừng lại bằng nền văn minh chữ viết, đây cũng là yếu tố đầu tiên cho sự ra đời của nền văn học tiền đại thừađại thừa.

Với một tôn giáo được hình thành và phát triển trước thời văn minh chữ viết của loài người như thế, thì người học Phật sẽ tự biết mình nên có một thái độ nào để có ích cho bản thân. Và đến đây cho phép chúng ta có thể nhận xét: Phủ định tất cả để đẩy mình đến vực sâu của sự hoài nghi, hay chấp trước tất cả vào văn tự để quay lưng với sự thật tri thức hiện đại của con người, là thái độ dại dột từ cái nhìn chưa thấu đáo, chưa có đủ niềm tin quyết liệt với bồ-đề tâm, là điều không nên của kẻ cầu học Phật của hôm nay.

Đạo Phật của hai ngàn năm trăm năm sau, hay còn sau hơn bao nhiêu nghìn năm nữa, khi con người được xem là chạm đến tận cùng của nền khoa học, với nền giáo lý của sự thật thực nghiệm, tôn giáo ấy có khi được xem là một nền triết học, hay một thứ gì đó mà khoa học đã gặp gỡ và có thể chạm đến. Tuy nhiên, sự thật thì tôn giáo ấy có nhiều lãnh vực mà khoa học không thể bước vào, bởi những thứ thuộc về giá trị tinh thần tâm linh thì hoàn toàn thuộc về phạm trù khác. Và vì thế, những chi tiết huyền thoại về Phật đà, đã được lưu truyền bởi hàng đệ tử, bằng câu chuyện đản sanh với hoa sen, với bảy bước xưng tôn, với sự vui mừng của chư thánh thần trời đất ấy, là những giá trị tinh thần, hàm súc nền minh triết Đông phương, được viết nên từ tình cảm giáo đồ Phật giáo của Đông phương, kết tinh lại tất cả lòng thành và niềm tôn kính tin yêu của hai mươi lăm thế kỷ lịch đại giáo đồ đối với bậc giáo chủ, dù truyền thuyết mà không hề đứng bên lề của nhận thức hiện đại.

Tất nhiên, sự thần thoại hóa do tình cảm của tín đồ giành cho đấng giáo chủ là một mẫu số chung của vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, tình cảm đó được căn cứ từ đâu, phản ảnh được điều gì về nền tảng giáo lý của tôn giáo ấy, và nó có đem lại lợi ích cho con người hay không thì là một điều khác biệt. Nét khác biệt ấy cho thấy cái riêng của từng tôn giáo.

Đức Như Lai, kẻ đến đi như sự thật, không nhiễm trước những gì có được trong đời, không mong cầu sự ngưỡng vọng tôn bái. Bậc dũng sĩ mạnh mẽ nhất có thể chiến thắng được phiền não của sanh tử chúng sanh, người có khả năng quăng bỏ một cách dứt khoát cái tôi và cái của tôi trong tinh thần vô ngã tuyệt đối. Bậc vô thượng sỹ chân thật như thế mới có thể tạo nên sự đồng vọng tôn sùng của nhân loại suốt chặng đường xuyên lịch sử con người. Để từ phẩm chất ấy mà hàng đệ tử viết thành câu chuyện đản sanh như Phật giáo đồ chúng ta đang có hôm nay.

Khải Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12243)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13549)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12645)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 13002)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16322)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11771)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 13442)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11722)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11255)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11962)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10294)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29300)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11972)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11980)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10979)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 11406)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 11502)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 15961)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12633)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13240)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 12384)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 15173)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15093)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13081)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 12334)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 11912)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 11687)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 11467)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30480)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 20040)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 28434)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 65904)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 18818)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 11298)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 22750)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 15324)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 16249)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 15630)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant