Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

- Nghi Chẩn Tế

27 Tháng Hai 201100:00(Xem: 4216)
- Nghi Chẩn Tế


TÂM NHƯ - TRÍ THỦ TOÀN TẬP

Hoà Thượng Thích Trí Thủ


NGHI CHẨN TẾ 

 A. PHẦN NGHI LỄ TRONG ĐIỆN PHẬT

1. CHỦ SÁM NIỆM HƯƠNG
2. LỄ PHẬT(Tùy ý)
3. TÁN CÚNG HƯƠNG
Hương vân di bố, thánh đức chiêu chương. Bồ đề tâm quảng thục năng lương. Xúc xứ phóng hào quang. Vi thoại vi tường. Ngưỡng khởi pháp trung vương. Hương vân cái bồ tát.

4. CHỦ SÁM: 
Cái văn hồng luân tây trụy. U ám sơ hôn. Mãn thiên tinh đẩu thư quang. Đại địa hỏa cự phát diệm. U viên thước loại quy sào huyệt. Hồng đồ nhân mã bôn già hương. Tiêu lâu cổ hưởng đinh đang, thảo giản khê thanh thảm thiết. Cấm môn cao tỏa bế, sài hộ mật thâm quan. Chánh nãi nhân tàng quỷ xuất chi thời, đương thbị siêu cô độ u chi tế. Kim thần phụng Phật trượng ngã sa môn ... cung tựu án tiền, cao thiết nghê đài, phóng thí mông sơn cam lộ pháp thực nhất diên. Sở hữu tham lễ giác hoàng. Ngưỡng lao đại chúng đồng âm tán dương Tam bảo.

Tả bạch cử tán: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai Phật Pháp Tăng tam bảo (3 lần).

5.ĐỌC SỚ 
6.TẢ BẠCH CỬ TÁN

Trong lúc kinh sư tán, vị chủ sám đội mũ tỳ lư lên đầu.

Đại bi Quán thế âm Bồ tát (3 lần)

Tất cả vừa tán bài này vừa đi ra ngoài đàn, đến bàn Tiêu diện.

B. PHẦN NGHI LỄĐÀN THÍ THỰC
1. THỈNH TIÊU DIỆN: 
Cử tán

Diện nhiên vương Bồ tát (3 lần)

Đại bi Quán thế âm Bồ tát (3 lần)

Tất cả vừa tán hiệu Quán thế âm vừa đến bàn Giác ba.

2. CÚNG PHẬT Ở BÀN GIÁC BA.
Cử tán

3.THỈNH SƯ. 
Vị tả bạch đến đứng cạnh chỗ ngồi của mình nơi bàn kinh sư vỗ thủ xích, thán: 

Chủ sám đáp: 

Đánh chuông trống bát nhã, chủ sám và kinh sư an tọa chỗ ngồi của mình.

4.KHAI ĐÀN SÁI TỊNH
a/ Cử tán

b/ Đọc pháp ngữ: Vị ngồi tả vỗ thủ xích, vị chủ sám nói bài pháp ngữ sau: 

Phù thử thủy giả, bát công đức thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập tỳ lô hoa tạng giới. Cá trung vô xứ bất siêu luân. Thủy bất tẩy thủy, diệu cực pháp thân; trần bất nhiễm trần, phản tác tự kỷ. Quyên trừ nội ngoại, đãng địch đàn tràng, sái khô mộc nhi tác dương xuân, khiết uế ban nhi thành tịnh độ. Sở vị đạo, nội ngoại trung gian vô trược uế, thánh phàm u hiển tổng thanh lương.

Thán: 

Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng: 

c/ Tụng Đại bi, tán cam lộ vương (3 biến)

5. THỈNH TAM BẢO
Đồng tụng: 

Chúng hòa: Hương hoa thỉnh (2 lần)

Chủ sám cầm hương thỉnh:

Nam mô nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp giới, vi trần sát độ trung, chư Phật Pháp Tăng, Kim cang mật tích, Vệ pháp thần vương, Thiên long bát bộ, Bà la môn tiên, nhất thiết thánh chúng. Duy nguyện, bất vi bổn thệ lân mẫn hữu tình, thử nhật kim thời quang lâm pháp hội.

Chúng hòa: Hương hoa thỉnh (2 lần) v.v...

Sau khi chủ sám thỉnh lần thứ ba, chúng hòa: 

Đăng bảo tọa Bồ tát Ma ha tát (3 lần)

6. THỈNH ĐỊA TẠNG 
Đồng tụng: 

Tả bạch: 

Chúng hòa: Hương hoa thỉnh (2 lần)

Nhất tâm phụng thỉnh Lạc bang giáo chủ y chánh trang nghiêm, Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh, Cửu phẩm hàm linh mông thác hóa, Đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. Duy nguyện bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình, thử dạ kim thời quang lâm pháp hội.

Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, Chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Đại thánh Địa tạng vương Bồ tát ma ha tát, duy nguyện bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình, thử dạ kim thời quang lâm pháp hội.

Chúng hòa: Hương hoa thỉnh (2 lần)

Nam mô nhất tâm phụng thỉnh, thủ kình phan cái, thân quải hoa mang, đạo chúng sanh quy cực lạc chi bang, dẫn cô hồn phó đạo tràng chi hội, u minh lộ thượng dẫn hồn vương Bồ tát Ma ha tát. Duy nguyện bất vi bản thệ, lân mẫn hữu tình, thử dạ kim thời quang lâm pháp hội.

Chúng hòa: Hương hoa thỉnh (2 lần)

7. SÁM THỈNH THẬP LOẠI 
Vận tâm bình đẳng, pháp giới vô biên, cung đối hàn lâm tiền xưng dương bảo hiệu. Nam mô Đa bảo Như lai, Quảng bác thân, Diệu sắc tướng, Cam lộ vương Như lai, Nam mô Bạt già phạt đế, Khốc thanh trực thướng hàn vân tiêu, Lộ thiều thiều, La hán sanh hoan, hôn trừ oán ngạn Tô nảnh Tô nảnh, dĩ vi nhiểu, hộ ngạn tất tri tất xả Tả nẳng duệ hê hê, Duệ hê hê, Tát rị quan mẫu đà nẩm De tóa ha.

Tả bạch: 

Thu võ ngô đồng diệp lạc thời, dạ thê thê, triệu thỉnh cô hồn lai phó hội. Ngạn thừa thử, Thừa thử thượng liên đài. Hộ ngạn tất tri tất xả. Tả năng duệ hê hê, duệ hê hê tát rị quan mẫu đà nẩm, de tóa ha.

Hữu bạch: 

Kim dạ đạo tràng pháp diên khai, hội nhiên lai triệu thỉnh cô hồn lai phú hội. Ngạn tiêu lâu tiêu lâu, cổ g3áo tất hộ ngạn tất tri tất xả, tả năng duệ hê duệ hê, tát rị quan mẫu đà nẩm, de tóa ha. Án bộ bộ đế rị già đá rị đát đá nga đa da.

Chúng hòa: Cô hồn văn triệu thỉnh lai lâm (2 lần).

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh

Chúng hòa: 

Duy nguyện thừa Tam bảo lực trượng bí mật ngôn, thử dạ kim thời lai lâm pháp hội, lai thọ vô giá cam lồ vị.

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 1: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 1: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa … (giống trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 2: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 2: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa … (giống trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 3: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 3: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa … (giống trước)

Chủ sám: Nhứt tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 4: 
 
 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 4: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (giống trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 5:

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 5: 

Kinh sư 6: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 6: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 7: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 7: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 8: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 8: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 9: 
 
 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 9: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 10: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 10: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 11: 

Chúng hòa: Ô hô! 

Kinh sư 11: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 12: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 12: 

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 13: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 13: 

 Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: Nhất tâm triệu thỉnh.

Kinh sư 14: 

Chúng hòa: Ô hô!

Kinh sư 14: 

(Hoặc: Thương vong hoạnh tử chi lưu)

Chúng hòa: Duy nguyện thừa ... (như trước)

Chủ sám: 

Kinh sư 15: 
 
 

Chúng hòa: Duy nguyện ... (như trước)

Tả bạch: 

8. TÁN TRẠO

9. ĐỌC ĐIỆP 
10. TỤNG TIỂU MÔNG SƠN 
11. QUY Y LINH: Hương linh quy y Phật ...
12. THUYẾT MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN 

Chủ sám: 

Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nayvô minh mê mờ che lấp bản tánh, sanh ra động lực mù quáng tạo thành thức hữu lậu, bị nghiệp kéo lôi. Rồi phát sanh các yếu tố tinh thầnvật chất. Ngoài có sáu trần, trong có sáu căn. Căn trần tiếp xúc nhau sanh tâm lãnh thọ. Không thích thì chán ghét, ưa thích thì đắm say. Đắm say thì chấp thủ lấy, đã chấp thủ thì có ra tam giới lục đạo; có tam giới lục đạo thì theo nghiệp mà thọ sanh. Có sanh thì có già chết, lo rầu khổ não, tạo thành bể khổ mênh mông không thời kỳ chấm dứt.

Nếu ngược dòng, giác ngộ vô minh thật tánh tức Phật tánh, thì vô minh hết. Vô minh hết tức không còn động lực mù quáng. Nghiệp thức biến thành trí huệ sáng suốt, không còn phân biệt vật chấttinh thần sai khác. Căn trần là một. Không còn sự tiếp xúc, lấy gì mà sanh ra cảm thọ. Không cảm thọ thì không còn say đắm ưa ghét. Không ưa ghét thì không chấp thủ. Không chấp thủ thì không có tam giới lục đạo. Không có tam giới lục đạo thì không còn bị nghiệp lôi cuốn đến thọ sanh. Không sanh thì không còn già chết. Tất cả sự khổ não đều tiêu tan. Bể khổ mênh mông quay đầu là bờ giác. Lành thay bốn đài sen không rời tấc bước, tịnh độ trước mắt rõ ràng. Nhọc nhằn gì, như gãy móng tay, liền chứng quả quang minh tự tại.

13. TỤNG KINH DI ĐÀ, NIỆM PHẬT
14. HỒI HƯỚNG: Thập phương tam thế Phật, A Di Đà đệ nhất ...
15. TẢ BẠCH XƯỚNG ĐỐT PHAN
16. TỤNG BÁT NHÃ, VÃNG SANH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24506)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26029)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13782)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13185)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22073)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19082)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10009)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11921)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15198)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10544)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21836)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10140)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9853)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9755)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10195)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27457)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17849)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13202)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25174)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34681)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26775)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19077)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13091)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9014)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9458)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9145)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11802)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18528)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8789)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10674)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10966)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28008)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17882)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14417)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16368)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13211)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15549)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14700)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17060)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30732)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant