Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13084)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI


Sự viên tịch của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V và sự ra đời của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã được Sangye Gyatso giữ bí mật suốt mười lăm năm. Tin tức được loan đi rằng đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ nhập thất thiền định vô kỳ hạn. Thông báo này chỉ được quần chúng và các công chức chính phủ thừa nhận về mặt hình thức mà thôi. Để giữ kín bí mật này, Sangye Gyatso, viên quan nhiếp chính đã phải thực hiện những việc bất bình thường. Việc này chỉ có các thị giả riêng của đức Đạt-lai Lạt-ma, vị Tăng sĩ giả dạng đức Đạt-lai Lạt-ma và viên quan nhiếp chính biết mà thôi. Sự mạo dạng này là yêu cầu bắt buộc không thể tránh được khi các Hoàng tử Mông Cổ và các nhân vật tầm cỡ khác muốn thỉnh cầu được tiếp kiến riêng với đức Đạt-lai Lạt-ma. Khi khoác lên mình chiếc y và mũ lễ phục, đeo kính râm vào, vị Tăng sĩ giả dạng đức Đạt-lai Lạt-ma đã có thể gạt được các viên chức cao cấp, những người dường như trước đó chưa từng nhìn thấy đức Đạt-lai Lạt-ma bao giờ.

Một số tài liệu cho rằng, chính đức Đạt-lai Lạt-ma trước khi viên tịch đã chỉ thị mưu kế này để giúp cho công trình xây cất cung điện Potala có thể được hoàn tất mà không bị bất cứ trở ngại nào và cũng để ngăn ngừa dân Mãn Châu gieo rắc mầm mống chia rẽ những người dân Mông Cổ thuộc vùng Kokonor.

Một số học giả cho rằng có lẽ Sangye Gyatso đã bày ra mưu kế này hoặc vì lý do an ninh quốc gia, hoặc vì muốn chính mình tiếp tục duy trì việc điều hành quốc sự của Tây Tạng. Thậm chí có học giả còn xác nhận rằng, bí mật này thật ra nhiều người dân Tây Tạng đã biết. Tuy nhiên, không ai phủ nhận khả năng điều hành quốc sự một cách đáng khâm phục của Sangye Gyatso. Malik còn đi xa hơn nữa khi phát biểu rằng: “Sangye đã bảo vệ tổ quốc thoát khỏi sự can thiệp của ngoại bang nhờ không giải bày cho quần chúng biết về tâm sự bí mật của riêng mình và những tình hình bất ổn trong nội bộ cũng như sự bất an của quốc gia”.

Năm 1695, cung điện Potala được hoàn tất. Năm sau đó (1696) tin tức về “đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V đã viên tịchtái sinh của Ngài đã được phát hiện ra trước đó rất lâu” đã được loan báo và thông báo chính thức với triều đình Trung Quốc.

Vào năm 1683, một bé trai chào đời ở huyện Monyul thuộc miền Nam Tây Tạng (ngày nay là huyện Tawang thuộc tiểu bang Arunachal, Ấn Độ). Cha của cậu bé là Ridgzin Tashi, một Lama Mật tông nổi tiếng của truyền thống Nyingmapa, đồng thời cũng là một Terton - người đã phát hiện ra bảo vật trong dòng truyền thừa của Padmaglingpa. Mẹ cậu bé là Tsewang Lhamo, một Phật tử thuần thành.

Theo truyền thuyết địa phương, vài hiện tượng kỳ diệu được cho là do cậu bé thực hiện. Những điều này bao gồm những vết chân cậu bé đã để lại, dấu vết xương đầu được in khi đặt cậu bé nằm và những chữ thần bí được viết bằng ngón tay trên tảng đá cứng. Tất cả những dấu tích này cho đến tận bây giờ vẫn còn có thể nhìn thấy được. Một trường hợp ngẫu nhiên khác được xem là kỳ diệu về việc cậu bé trồng ba cây gỗ đàn hương. Cậu ta nói rằng ba cây này sẽ phát triển và khi nào chúng cao bằng nhau thì cậu ta sẽ trở lại. Điều này đã được ghi nhận rằng vào năm 1959 những cây này đều có chiều cao, kích cỡ và hình dáng như nhau. Sau đó không lâu, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV đã đi ngang qua Tawang trong cuộc hành trình lưu vong đến xứ Ấn. Ngài thấy chúng còn để lại dấu tích bị xém lửa vào thời điểm hỗn loạn nhất do sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Tây Tạng.

Viên quan nhiếp chính Sangye Gyatso đã bí mật nghiên cứu những chỉ dẫn về thân tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Với sự hướng dẫn của các nhà tiên tri, vào năm 1685, phái đoàn tìm kiếm đã báo cáo về sự ra đời của một cậu bé khác thường. Sau hai chuyến viếng thăm liên tiếp của các phụ tá tin cậy và những cuộc hội ý cặn kẽ với các nhà tiên tri, cậu bé đã được xác nhậntái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma. Năm lên sáu tuổi, đức Đạt-lai Lạt-ma tí hon và mẹ của Ngài được đưa đến ở gần chùa Tsona và được bảo vệ an ninh chặt chẽ cho đến năm 1697. Vào thời điểm đó, Ngài được đưa đến Nakartse gần Lhasa để sư phụ của Ngài – đức Panchen Lama Lobsang Yeshe truyền lễ xuất gia, đặt Pháp danh Tsanyang Gyatso và giảng pháp cho Ngài. Tại đó, trước sự chứng kiến của đông đảo Tăng chúng bao gồm cả các Viện chủ của các Tu viện Drepung, Sera và Ganden, Sangye Gyatso đã trình bày chi tiết về những lời di huấn của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Sau đó, Tsanyang Gyatso được đăng quang thành đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI và ngự tại cung điện Potala trước sự tụ họp của các cư sĩ quí tộc, những nhân vật quan trọng trong giáo hội và các viên chức nước ngoài. Đức Đạt-lai Lạt-ma trẻ đã nhận được sự truyền dạy về tâm linh dưới sự chăm sóc và giám hộ của Sangye Gyatso và đức Panchen Lama thứ II. Tuy nhiên, Tsanyang Gyatso thích dành thời gian cho việc tập bắn cung tên và vui thú với bạn bè bên ngoài hơn là sự sợ sệt đối với viên quan nhiếp chính. Với cá tính mộc mạc, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã giản hóa những nghi lễ và cũng không cần người phục vụ hầu hạ. Ngài tự pha trà cho chính mình và sẵn sàng chia sẻ với bất cứ ai đến tiếp kiếnthỉnh cầu sự ban phúc của Ngài. Mặc dù ngài ít chú tâm vào sự học hỏi, huấn luyện ở chốn Thiền môn, thế nhưng Ngài lại nổi tiếng là một người thông minh, sâu sắc và đã sáng tác được nhiều luận thuyết uyên bác. Ngài cũng là một nhà kiến trúc khéo léo, đã trang trí cho cung điện Potala và xây dựng cung điện Lu Khang (Toà nhà Rắn) phía dưới cung điện Potala. Như một vũ công, Tsanyang Gyatso đã cống hiến cho sự phát triển của Cham - một nền nghệ thuật nhạc kịch trong các tu viện Tây Tạng.

Năm hai mươi tuổi, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đến Tashi Lhunpo, dự định sẽ thọ Đại giới với sư phụ của mình là đức Panchen Lama, nhưng Ngài đã trì hoãn việc đó trong suốt thời gian rất dài. Sau đó, bất chấp sự nài nỉ khẩn cầu của các viên chức lãnh đạo như Thanyang Khan – anh trai vua Qosot của Tây Tạng, Ngài Panchen Lama và các vị Viện trưởng của Drepung, Sera, Ganden – Tsanyang Gyatso xả giới và hoàn tục. Tuy Ngài không còn là bậc lãnh đạo tôn giáo của Tây Tạng nữa, nhưng vẫn có thể giữ địa vị của mình ở thế gian như một Đạt-lai Lạt-ma.

Từ đó, Tsanyang Gyatso thích giữ khoảng cách với Sangye Gyatso. Hơn nữa, trước sự sửng sốt của viên quan nhiếp chính và tất cả các nhân vật lãnh đạo quốc gia, đức Đạt-lai Lạt-ma có cách ăn ở được xem là không thích hợp với người Tăng sĩ. Lối ăn mặc như một cư sĩ với những bộ quần áo lụa xanh và gấm thêu kim tuyến, để tóc dài, thường đến các quán rượu ở Lhasa và Shol, một khu phố ngay dưới chân của cung điện Potala… Trong khi lối cư xử của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI bị xem như một nỗi kinh hoàng trong giới viên chức lãnh đạo cả lĩnh vực tôn giáo lẫn thế gian thì Ngài lại được quần chúng hết sức tôn sùng và niềm tôn kính ấy vẫn còn duy trì cho mãi đến ngày nay trong hầu hết người dân Tây Tạng. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã đặc biệt được mến mộ qua những tác phẩm thơ ca của Ngài. Bên cạnh nhiều bài thơ hàm chứa tính trào phúng sâu sắc đề cập đến sự bất công của xã hộiđạo đức giả của nhiều Tăng sĩ, còn có những bài thơ tình rất sáng sủa. Tuy nhiên, thơ ca của Ngài cũng đã thể hiện được những cảm xúc tôn giáo rất sâu sắc. Có những bài thơ được các học giả Tây Tạng đánh giá như những tác phẩm của một bậc Đạo sư Mật tông, hàm chứa những ẩn ýđộc giả thông thường không thể cảm nhận được. Sự đánh giá này được ủng hộ bởi các luận thuyết của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI. Có ý kiến cho rằng Ngài đã hành động với khả năng của một Đạo sư Mật tông – một bậc Thầy tinh thông – người đã dạy cho ta biết rằng: “Chính cuộc đời, dù nó xảy đến với chúng ta trong bất cứ hình thức nào, cũng đều là một trong những bậc Thầy vĩ đại nhất của chúng ta”.(1) Một l‎ý do khác được các tác giả nêu ra về cách cư xử của Tsanyang Gyatso là Ngài đã không nhận được sự dạy dỗ và giáo dục nghiêm ngặt về tôn giáo, điều mà các Đạt-lai Lạt-ma và các vị hóa thân cao quý khác phải trải qua ngay từ tuổi ấu thơ. Do những hoàn cảnh xung quanh cái chết của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V nên vị hóa thân trẻ thứ VI này được sống nhiều năm trong những mối quan hệ tự do. Tuổi trẻ của Ngài đã có thời gian tiêm nhiễm cái sở thích về những thú vui thế gian, cho thấy rằng những đặc điểm và các sở thích ấy không thể sẵn sàng gạt bỏ sang một bên được. Không lấy gì làm ngạc nhiên rằng, theo lối suy nghĩ ấy, vị Đạt-lai Lạt-ma trẻ vô tư ấy đã lẩn tránh cái gánh nặng của những trách nhiệm mới bị áp đặt này.

Đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại thì nêu lên một giả thuyết khác rằng có thể đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI cảm thấy sẽ tốt hơn nếu gián đoạn dòng hóa thân của Ngài bằng cách ủng hộ quyền kế vị theo dòng truyền thừa di truyền cha truyền con nối như truyền thống phái Sakya. Điều này sẽ loại trừ được sự vô nghĩa của quyền lực, điều mà chắc chắn sẽ tồn tại trong thời gian giữa cái chết của một vị Đạt-lai Lạt-ma cho đến khi vị tái sinh của Ngài đạt đến tuổi trưởng thành. Rắc rối chỉ có thể được giải quyết bởi cậu con trai của người lãnh đạo - khi đã được trang bị đầy đủ và chín muồi, sẵn sàng bước vào địa vị thừa kế của cha mình. Là một Tăng sĩ theo truyền thống Gelugpa, điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách xả giới, hoàn tục và sống cuộc đời như một người cư sĩ.

Lhazang Khan, thủ lĩnh của dân Qosot - người nắm giữ vương quyền của Tây Tạng bằng cách hạ độc anh trai của mình, vẫn giữ chức vị là vua của Tây Tạng. Lhazang và Sangye Gyatso càng ngày càng đối kháng lẫn nhau. Năm 1703, Sangye Gyatso bị buộc phải từ chức do một số bất bình của người Mông Cổ đối với ông ta. Trước khi từ chức, ông đã xây một lăng mộ bằng vàng trong cung điện Potala để bảo quản di thể của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Khi từ chức, ông đã đề cử con trai lớn của mình là Ngawang Rinchin làm quan nhiếp chính. Tuy nhiên, từ phía hậu trường ông vẫn duy trì việc điều hành chính trị một cách rất hiệu quả. Các cuộc tranh cãi về thực tiễn tôn giáo và sự thất bại của Sangye Gyatso đối với việc chỉnh sửa cách quản lý của đức Đạt-lai Lạt-ma đã làm tăng thêm tình hình căng thẳng với Lhazang Khan. Cuối cùng, Sangye Gyatso đã cố hạ độc Lhazang và một trong những thư ký của ông ta, nhưng Jamyang Shepa ở tu viện Drepung đã cứu được họ.

Ba vị viện chủ của ba tu viện chính của phái Gelupa là vị đại diện của Ngài Panchen Lama, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI và nhà tiên tri Lamo là những người đã nỗ lực đứng ra hòa giải mối xung đột này. Kết quả là Lhazang Khan, không thể từ chối được, phải tuân lệnh của nhà tiên tri Lamo chuyển đến xứ Kokonor. Tuy nhiên, đi chưa được bao xa thì Lhazang Khan xảo quyệt ấy lại tập hợp quân lính của mình và tiến đến Lhasa. Sự thương thuyết của Panchen Lama và các vị viện chủ đã không tạo được sự ngừng bắn. Theo những báo cáo của Dhondup thì Sangye Gyatso và quân đội Tây Tạng của ông đã nhanh chóng bị bại trận. Sau đó, vị cựu quan nhiếp chính này đã bỏ đi Gongkar nhưng đã bị chặn lại theo lệnh của vợ Lhazang Khan và đã bị hành quyết vào năm 1706. Sự việc này đã bị nhân dân Tây Tạng phản đối kịch liệt, bởi vì ngoài những khiếm khuyết của mình, Sangye Gyatso đã được xem như một người vô địch trong các mối quan tâm của người dân Tây Tạng. Lúc bấy giờ, Lhazang Khan đã hoàn toàn nắm giữ quyền điều hành chính sự.

cách sống của đức Đạt-lai Lạt-ma được lý giải dưới góc độ nào thì đó cũng là lý do chính để phe đối kháng buộc Ngài từ bỏ chức vụ của mình. Với lý do đó, Lhazang Khan đã khích động về việc cách chức đức Đạt-lai Lạt-ma. Ông đã ra sức lôi kéo sự ủng hộ của ba tu viện chính và Ngài Panchen Lama. Ông cũng tìm kiếm sự trợ giúp của hoàng đế K’ang His, người đã ban hành lệnh truy bắt đức Đạt-lai Lạt-ma đưa về Bắc Kinh. Lhazang Khan ra sức xúi giục những vị lãnh đạo truất phế đức Đạt-lai Lạt-ma trên với lý do không còn đủ tư cáchđịa vị đó nữa. Mặc dù họ không tiến hành xa như thế nhưng cũng đã ban hành một quyết định ám chỉ rằng: Tsanyang Gyatso dù còn là một vị Đạt-lai Lạt-ma hợp pháp nhưng tinh thần giác ngộ đã không còn trong con người của Ngài nữa. Với cái cớ ấy, Lhazang Khan đã ra lệnh đưa đức Đạt-lai Lạt-ma đến doanh trại quân đội của người Mông Cổ ở Lhalu nằm bên ngoài Lhasa, và tất cả những tài sản riêng của Ngài phải chuyển đi khỏi cung điện Potala.

Vào ngày 27/06/1706, tin tức đức Đạt-lai Lạt-ma đã bị truất phế và sẽ bị đưa đi đày ải được loan truyền khắp nơi. Khi đoàn hộ tống Ngài đi đến Drepung thì có một đám đông người không có khí giới đã tấn công, sau đó đã bị đánh bật trở lui. Họ đưa được đức Đạt-lai Lạt-ma đến Drepung. Ngày hôm sau, vị Thần tiên tri Nechung được thỉnh cầu về để tham khảo ý kiến và Ngài đã công bố rằng Tsanyang Gyatso chính là hoá thân thật sự của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Nhận thấy rằng một cuộc thảm sát có thể sẽ xảy ra nên đức Đạt-lai Lạt-ma khăng khăng đòi ra đi cho dù bạn bè của Ngài đã bị giết sạch trong cuộc tấn công để bảo vệ Ngài thoát khỏi tay của quân lính Mông Cổ. Tuy thế, Lhazang Khan, trong cơn tức giận, đã tấn công và cướp phá chùa trước khi sang Trung Quốc cùng với vị Đạt-lai Lạt-ma đã bị truất phế. Tháng 11/1706, tại một hồ nhỏ tên là Gunganor ngay miền Nam Kokonor, Tsanyang Gyatso, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã biến mất. Theo hồ sơ của Tây Tạng và chính quyền Trung Quốc thì Ngài đã từ trần do bệnh tật. Thi thể của Ngài không bao giờ được tìm thấy và theo sự suy xét thì Ngài đã bị giết.

Trong truyền thuyết dân gian và trong biên niên sử của Tây Tạng vẫn còn câu chuyện rằng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI - đã sử dụng những năng lực huyền bí của mình - chỉ biến mất khỏi tay những người bắt giam Ngài. Trước tiên Ngài đến miền Đông Tây Tạng, sau cuộc du hành vạn dặm, Ngài đã đến Mông Cổ. Theo một số sử liệu của Mông Cổ thì tại đây, Ngài sống một cuộc đời tĩnh lặng trong sự thiền định và đã thu nhận nhiều đệ tử. Trong cuốn “Tiểu sử bí mật của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI” cũng nói rằng, “Ngài đã xây dựng nhiều chùa chiền và cuối cùng viên tịch vào năm 1746”. Trong một bản phóng tác khác chép rằng: sau khi biến mất khỏi những người bắt giam Ngài, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI đã vân du như một Tăng sĩ, thỉnh thoảngxuất hiện nhưng lại biến mất ngay lập tức mỗi khi Ngài bị người phát hiện ra. Cuối cùng, Ngài đã đến Mông Cổ và làm việc như một người chăn dê.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó, thay vì chỉ thích sống một cuộc đời theo đuổi những thú vui - một cuộc sống mà đã được giải thích nhiều dưới ánh sáng của Mật tông là đã nâng những hành động của Ngài “vượt lên trên những việc làm bình thường của những con người bình thường ở thế gian”. Ngài là con người của dân tộc, đã thể hiện được chính mình qua những vần thơ kiệt tác. Mặc dù Ngài là nguồn hiềm khích của giới viên chức Tây Tạng nhưng Ngài đã được quần chúng Tây Tạng tôn kínhyêu quí vô cùng. Đối với họ, Ngài chính là một vị Thần có lòng từ bi vĩ đại, đã giáng hạ xuống để có những cảm xúc như một con người. Thậm chí Ngài đã hành động như một con người bình thường trong khi vẫn tiếp tục duy trì hóa thân của đức Quán Thế Âm, vị Bồ-tát của lòng từ, vị Hộ thần cao quý của miền đất tuyết.

Biển Xanh

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

(1) Trong “Tibet” của Norbu và Turnbull, tr. 284-293, hai tác giả này đã bàn về những nét nổi bật trong sự giảng dạy Mật tông của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI. Một vấn đề đáng chú ý trong mối quan hệ của Tsanyang Gyatso với nữ giới là Ngài đã khẳng định rằng không hề cho phép một giọt tinh dịch nào xuất ra trong tất cả các mối quan hệ với nữ giới. Điều này được xem là một sự thực hành Mật Tông tối thượng đưa đến sự tỉnh giác của tâm ở cấp độ cao. Những ý kiến tương tự cũng đã được bàn đến trong “Dalai Lama of Tibet” của Malik, tr. 34-35; “Initiates and Initiations in Tibet” của Alexandra David-Neel, tr.123.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 32


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17654)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24488)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26003)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13771)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13175)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22045)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19070)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10002)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11908)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13041)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15182)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10537)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21820)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10121)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9844)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9747)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10191)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27393)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17832)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13189)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25145)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34649)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26756)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19062)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 9003)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9451)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9133)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11794)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18518)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8776)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10664)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10954)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 27998)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17876)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14409)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16364)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13201)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15525)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14693)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7596)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17041)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8386)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30717)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant