Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9139)
Tiểu sử đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III


Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III ra đời vào năm 1543 ở làng Khangsar thuộc thung lũng Tolung cách Lhasa không xa lắm. Cha của Ngài, Depa Namgyal và mẹ, Paldzom Butri là một gia đình quý tộc có quan hệ tốt với dòng dõi Phagmotru và chùa Sakya. Cũng như hai vị Đạt-lai Lạt-ma trước, những dấu hiệu kỳ lạ đã xảy ra trong lúc Ngài đản sanh. Theo tiểu sử viết về Ngài, lúc vừa chào đời, hài nhi đã bắt đầu tụng đại thần chú của Tây Tạng “Om mani padme hum”. Sau khi biết nói bập bẹ, cậu bé thường nói về tiền thân của mình với những thông tin thật chính xác, thậm chí còn tuyên bố rằng mình chính là Gendun Gyatso (vị Đạt-lai Lạt-ma thứ II). Những dấu hiệu này đã gây sự chú ý cho phái đoàn tìm kiếm tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II.

Phái đoàn tìm kiếm đã tham khảo lời tiên tri của thần Nechung, một trong những vị Hộ Thần chủ yếu của Tây Tạng. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã thiết lập mối quan hệ rất đặc biệt đối với vị thần này và tất cả các hậu thân sau này của Ngài cũng tiếp tục duy trì mối quan hệ đặc biệt ấy. Ngài Sungrad Gyatso, dẫn đầu phái đoàn tìm kiếm của Drepung và từng là chánh thư ký‎ của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II, cũng đã tham khảo những dấu hiệu trong hồ Nữ Thần huyền bí. Cuối cùng, chỉ có thung lũng Tolung là địa điểm cần được xem xét. Sau những tiến trình tìm kiếm theo đúng nghi thức, cậu bé, lúc ấy được bốn tuổi, đã nhanh chóng được xác nhậntái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II. Ngài Sungrab Gyatso đã đứng ra sắp xếp lo liệu mọi việc cho sự tấn phong và việc học hành của Ngài.

Được đưa vào ở Dredung, Ngài đã chứng tỏ mình là một học trò thông minh xuất chúng và sớm phát triển những khả năng đặc biệt dưới sự dạy dỗ của Panchen Sonam Drakpa - người đã trao truyền ngũ giới cho Ngài. Ngài được đặt Pháp danh là Sonam Gyatso. Năm lên mười tuổi, Ngài chính thức đăng quang tại Drepung và bốn năm sau đó lại đăng quang một lần nữa tại Sera. Suốt thời gian ấy, Ngài được học hành dưới sự hướng dẫn của nhiều bậc Thầy lỗi lạc. Bên cạnh đó, Ngài còn làm chủ trì cho toàn bộ Đại Lễ Hội Cầu Nguyện.

Khi còn rất bé, Sonam Gyatso đã hành hương đến chùa Chokhor Gyal. Đây là chuyến hành hương mà tất cả các vị Đạt-lai Lạt-ma đều phải thi hành trong cuộc đời của mình với mục đích cho sự thực hiện thiền định Mật tông. Cả hàng nghìn người xếp hàng bên lề đường để đón nhận sự ban phúc của Ngài. Ngài cũng đã viếng thăm rất nhiều ngôi chùa trên suốt lộ trình của mình. Kể từ đó, Ngài phải chia thời gian ra để quản lý giữa hai chùa Chokhor Gyal và Drepung; đồng thời Ngài còn thuyết giảng nhiều nơi ở phương xa. Để đáp lại nhiều lời thỉnh cầu, Ngài đã phải đến những vùng xa xôi của dân du mục ở tận phía Bắc Tây Tạng; rồi lại đến miền Nam, nơi mà Ngài đã khước từ chức vụ Viện trưởng của Tashi Lhunpo và chỉ nhận cương vị như một người đại diện mà thôi; rồi lại đến trung tâm Tây Tạng để thuyết giảng.Tuy nhiên, Ngài vẫn duy trìgia tăng lịch trình thiền định nghiêm khắc hàng ngày và nhập thất định kỳ của mình. Dù những Phật sự chiếm hầu hết thời gian của Ngài; tuy vậy, Ngài vẫn trước tác hơn bốn mươi tác phẩm. Với lòng nhiệt huyết vì sự truyền bá giáo pháp, Ngài đã rất thành công trong công cuộc củng cốtruyền bá giáo lý của ngài Tsongkhapa trên khắp đất nước Tây Tạng.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III được chọn làm thầy giáo riêng cho vua Nedong - một trong những người thống trị hùng mạnh nhất của dòng dõi Phagmotru, ông băng hà vào năm 1564. Sự qua đời của nhà vua khiến cho vận mệnh của phái Gelugpa, phái đã từng được sự ủng hộ của dòng dõi Phagmotru, trở nên sa sútáp lực của những người ủng hộ phái Karma Kagyud. Sonam Gyatso thường đóng vai trò là người hòa giải trong những mối xung đột ấy. Vào năm 1573, Ngài sáng lập chùa Namgyal, một ngôi chùa dành riêng cho tất cả các Đạt-lai Lạt-ma, tọa lạc trên ngọn đồi Potala ngay bên ngoài Lhasa, nhưng nó lại bị tiếp quản bởi Tsang, người ủng hộ cho lực lượng phái Kagyud. Năm 1574, Tsang xâm chiếm trung tâm Tây Tạng và nắm trọn quyền lực. Trong bối cảnh ấy, một Thái tử đầy quyền uy của Mông Cổ, Altan Khan, người đã từng chiến thắng trong cuộc tấn công vùng biên giới của Trung Quốc, mời Ngài đến thăm đất nước Mông Cổ.

Vào triều đại của Kublai Khan và Sakya Phagpa, người Mông Cổ đã từng đón nhận niềm tin Phật giáo; nhưng sau sự thất bại của triều đại Yuan, họ đã trở về với lối tín ngưỡng Pháp sư cũ của họ. Mãi đến thời kỳ này, Altan Khan mới trở lại nghiên cứu và biết được sức mạnh của giới Giáo sĩ ở châu Á và nhớ đến quá khứ lịch sử huy hoàng của khối liên minh Kublai-Sakya, nên đã mời ngài Sonam Gyatso đến Mông Cổ. Sự kiện này đã được người dân Trung Quốc đặc biệt hoan nghinh. Trong nhiều năm qua, họ đã vô cùng lúng túng trước những lực lượng tấn công của Mông Cổ. Vì vậy, họ có thể thấy được những lợi thế ủng hộ những nỗ lực của các Đạo sư Tây Tạng khiến cho Mông Cổ phải từ bỏ tín ngưỡng của mình để theo Phật giáo, điều đó sẽ làm giảm tinh thần chiến đấu của người Mông Cổ, làm suy yếu một cách có hiệu qủa về mối đe dọa quân sự của họ.

Thận trọng trước những ý định của Mông Cổ, Sonam Gyatso từ chối lời mời của thái tử Altan Khan và thay vào đó là gởi người đại diện đến. Năm 1576, Altan Khan gởi lời thỉnh cầu thứ hai cùng với một phái đoàn lớn đến để thuyết phục. Đến thời điểm này, Sonam Gyatso mới đầy đủ cơ duyên để truyền bá Phật giáo trên khắp đất nước Mông Cổ. Sonam Gyatso đã bắt đầu thực hành lời tiên đoán mà Ngài (đức Đạt-lai Lạt-ma II) đã nói vào khoảng cuối đời trước của mình rằng Ngài “sẽ trở lại để làm việc với những người ở phía Nam”. Công việc này sẽ tác động nhiều đến sự hiểu biết của thế giới bởi lẽ nó chinh phục được những cuộc tấn công của quân đội Mông cổ đã phá phách rất nhiều ở châu Á và thậm chí cả một số vùng của châu Âu.

Do tiếng tăm của mình, Ngài được các nhân vật quan trọng tầm cỡ trong xã hội cũng như các bậc lãnh đạo Giáo hội đưa tiễn Ngài lên đường. Cả một đoàn người đông đúc cùng tháp tùng với Ngài qua nhiều dặm đường cách Lhasa thật xa trước khi họ nghẹn ngào rơi lệ, bịn rịn, miễn cưỡng chia tay Ngài. Đoàn tùy tùng của Ngài đã lên đường với một tốc độ rất chậm, cuộc hành trình kéo dài đến hơn cả năm trời. Nguyên do chính là vì trên lộ trình có rất nhiều chùa chiền và các gia đình quý tộc thỉnh cầu Ngài dừng lại để ban phước lành và thuyết giảng giáo lý cho họ. Chuyện kể rằng, dọc đường, để chế ngự những dòng nước chảy xiết khiến đoàn tùy tùng của Ngài khó có thể vượt qua được, Ngài đã làm cho dòng thác phải đảo ngược dòng. Và từ một tảng đá rất lớn, Ngài đã rút ra một chiếc vỏ ốc xà cừ có trôn xoáy (vật biểu lộ như một điềm báo trước về một dấu hiệu rất hy hữu, may mắn và có triển vọng tốt đẹp). Do những hiện tượng ấy, tiếng tăm của Ngài đã trở nên lừng lẫyMông Cổ trước cả khi Ngài đặt chân đến đó, đồng thời điều đó cũng chứng tỏ rằng “Ngài và tôn giáo của Ngài có những năng lượng được coi là hết sức quan trọng”. Cuối cùng một đoàn người hùng hậu mang theo vô số quà tặng của Thái tử Altan Khan đã ra nghinh đón trước và cùng tháp tùng với phái đoàn của Ngài đi đến doanh trại của Altan Khan.

Trong cuộc nói chuyện đầu tiên của mình khi vừa đặt chân đến Mông Cổ và vùng biên giới Trung Quốc, Sonam Gyatso đã công bố những điều luật mới cho miền đất này, chẳng hạn như: phải tuân giữ các giới luật của đức Phật, cấm những sự hiến máu của tất cả các loài vật; không được buộc những người góa phụ phải hy sinh để thủ tiết; không được trả thù hay chống báng Tăng sĩ… Vị thần Mông Cổ Ongghon được thay thế bằng vị thần bảo hộ Trí tuệ Mahakala, một hiện thân của đức Quán Thế Âm. Người Mông Cổ cũng phải hạn chế những việc cướp phá và các cuộc tấn công xâm lấn Trung QuốcTây Tạng. Nói chung, người dân ở đây được khuyến khích nên kết hợp những lời dạy của đức Phật vào cách sống của họ. Sau đó, Altan Khan đã tuyên bố rằng những giới cấm ấy được xem như những điều luật của quốc gia, sự kiện này đã trở nên rất hữu ích cho nền hòa bình của nhân dân Trung QuốcTây Tạng.

Sau đó, Altan Khan trao tặng cho Sonam Gyatso tước hiệu “Tale” (Dalai), nghĩa là “biển”, “đại dương”, tương đương với ý nghĩa phần thứ hai tên Tây Tạng của Ngài là Gyatso. Nghĩa bóng của từ này hàm ý là “Biển Tuệ” hay “Trí tuệ như Đại dương”. Kết hợp thành từ “Dalai Lama” hay “bậc Đạo Sư (trí tuệ như) đại dương”; bậc “Đại Đạo Sư”. Danh hiệu này cũng được áp dụng cho những vị tiền thân của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III (nghĩa là vị thứ I và thứ II) và cho tất cả các tái sinh của Ngài tiếp theo sau này. Về phía mình, Sonam Gyatso cũng ban tặng danh hiệu “Đạo Vương Nghiêm Tịnh” cho Altan khan. Chuyện kể rằng, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III đã tiết lộ, Altan Khan chính là tái sinh của Kublai Khan và Ngài (Sonam Gyatso) chính là tái sinh của Phagpa, bậc Đại Đạo sư lỗi lạc của phái Sakya; do đó mối quan hệ trong tiền kiếp giữa bậc đại Đạo sư và nhà vua bảo trợ này đang được phục hồi lại.

Để củng cố các nghi thức Phật giáo, Sonam Gyatso đã kiến lập ngôi chùa Tekchen Chokhor, tiếp theo sau đó nhiều ngôi chùa khác được xây dựng. Ngài cũng sắp đặt cho Lama Yonten Gyatso (người có cùng tên với đức Đạt-lai Lạt-ma thứ IV sau này, do vậy độc giả không nên nhầm lẫn!) ở lại đó với tư cách là người đại diện của Ngài, vị này cũng đã tiếp tục trở thành một trong những bậc xuất chúng của Phật giáo Mông Cổ. Một thời gian sau đó, Yonten Gyatso rất được tín nhiệm vì đã có công cứu Altan Khan từ cõi chết được mạnh khỏe trở lại, do đó củng cố được niềm tin Phật pháp của người Mông Cổ. Altan Khan sắp xếp và cung thỉnh Sonam Gyatso đến viếng thăm cung điện Hoàng gia và mời Ngài tham dự một cuộc hẹn gặp gỡ để xúc tiến mối quan hệ song phương giữa Trung QuốcTây Tạng. Sonam Gyatso đã thực hiện điều đó; tuy nhiên, Ngài chỉ thuyết giảng ở miền Tây Trung Quốc, sau đó các quan chức chính quyền đã phiên dịch rộng rãi ra cho tất cả dân chúng.

Vài năm kế tiếp, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III tiếp tục du hành đến các tỉnh Amdo, Kham ở miền Đông Tây Tạng và đã xây dựng chùa chiền, truyền bá giáo pháp‎ ở đó. Đặc biệt, Ngài được sự trợ giúp nhiệt tình của vua xứ Litang, người mà trước kia đã từng bảo trợ cho phái Karmapa và kiến lập một ngôi chùa tại đó. Ngài cũng xây ngôi chùa Kumbum tại nơi ngài Tsongkhapa chào đời. Kumbum sau này phát triển thành trụ sở đầu tiên của phái Gelugpa ở miền Đông Tây Tạng. Những chuyến đi này đã làm nổi bật một cách đáng kể về thanh thế của đức Đạt-lai Lạt-ma trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp của phái Gelugpa trên những xứ sở này, nơi mà đã từng chịu ảnh hưởng rất lớn từ phái Nyingmapa và đạo Bon.

Vào năm 1585, nhận lời mời của Dhuring Khan - người nối ngôi của Altan Khan - Sonam Gyatso đã trở lại Mông Cổ. Trong thời gian ở đó, Ngài đã được yêu cầu làm người hòa giải mối bất hòa về biên giới giữa Mông CổTrung Quốc, có lẽ đây là lần đầu tiên vị Đạt-lai Lạt-ma đã hành xử toàn quyền về chính trị. Ngài cũng nhận được lời mời của Hoàng gia Trung Quốc nhưng Ngài đã từ chối và hứa là sẽ đến vào dịp sau. Năm 1588, Ngài trở về miền Đông Bắc Tây Tạng và ngã bệnh, cảm thấy sắp đến lúc ra đi, Ngài đã truyền những di huấn cho các đệ tử và nói rằng Ngài sẽ sớm trở lại trong một thân hình khác. Cũng giống như các tiền thân của mình, Ngài ngồi thiền nhập địnhdần dần thâu thần viên tịch. Tro cốt của Ngài được đưa về Lhasa và được bảo quản phụng thờ ở Drepung.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng ngay từ lúc bắt đầu sự nghiệp của mình. Kết hợp các truyền thồng của Nyingmapa và Gelugpa, Ngài duy trì sự thiền định và nhập thất như một tấm gương mẫu mực cho đệ tử của mình. Công việc của Ngài ở Mông Cổ và miền Đông Tây Tạng đã đẩy mạnh được phong trào Phật giáo nói chung và truyền thống Gelugpa nói riêng. Những hoạt động này liên quan đến nền hòa bình của Tây TạngTrung Quốc nên Trung Quốc đã sớm có mối liên hệ với Tây Tạng. Tuy nhiên, di sản lớn nhất của Ngài là đã hóa độ được người Mông Cổ đến với Phật giáo. Kể từ đó, Mông Cổ vẫn luôn duy trì là một quốc gia rất tận tụy đối với vấn đề tâm linh cho đến tận bây giờ.

Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

Nguồn: Tập San Pháp Luân 23


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24498)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13773)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13180)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22061)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19076)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10005)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11913)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13044)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15194)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10541)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21829)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10130)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9849)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9751)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27427)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17845)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13198)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25162)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34662)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26767)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19071)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9007)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13089)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9009)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9453)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 11796)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18524)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8786)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10668)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10959)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28004)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17879)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14413)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16366)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13207)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15538)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14697)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7601)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17051)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8397)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30723)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant