Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sư Bà Diệu Không (1905-1997)

03 Tháng Mười 201406:46(Xem: 7374)
Sư Bà Diệu Không (1905-1997)

CUỘC ĐỜISỰ NGHIỆP SƯ BÀ DIỆU KHÔNG
1905-1997

su-ba-dieu-khong

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Đại Tăng chứng minh,

Kính thưa Đại chúng Phật tử,

 

Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.

* Sơ Lược tiểu sử, 1905-1997

I. Thân Thế:

SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên, trong buổi giao thời của hai nền văn hóa cũ mới.

SB vốn dĩ xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, thân phụ của SB là quan Đại thần của triều đình Huế thời bấy giờ. Thuở thiếu thời SB đã hấp thụ sâu đậm hai nền giáo dục cũ mới ấy nên tư tưởng của SB rất cấp tiến. Gia đình muốn cho SB xuất dương du học, nhưng SB đã từ chối vì muốn sống trong hoàn cảnh đương thời, trong lễ nghi đạo đức truyền thống ngõ hầu nâng cao phẩm giá của người phụ nữ mà SB thường ấp ủ. Tuy nhiên, SB nghĩ rằng muốn nâng cao giá trị phẩm chất của người phụ nữ thì phải xuất gia, tu học, phải xa rời đời sống nhỏ hẹp gia đình. Để thực hiện ước vọng ấy, SB bèn xin Cha Mẹ đi tu, nhưng gia đình không dễ dàng chấp nhận vì SB là con gái út của quan Đại thần, hơn nữa thời gian ấy ở Huế chưa có một ngôi chùa chính thức của Ni giới. Trước những khó khăn trở ngại ấy, SB ẩn nhẫn chờ thời, lo trả hiếu cho Cha Mẹ, làm tròn bổn phẩn đối với gia đình, mong cơ duyên sớm đến đển hoàn thành chí nguyện xuất gia.

II.  Đầu Phật Xuất gia:

Vào năm 1932, khi SB 27 tuổi được Hòa Thượng Giác Tiên, Tổ Đình Trúc Lâm, truyền Thập giới Sa Di Ni và cho pháp tự Diệu Không, nhưng SB vẫn để tóc làm phương tiện giao dịch với người Pháp trong chính quyền bảo hộ, với tư cách đại diện An Nam Phật Học mà SB là một trong những vị sáng lập viên. Thời gian qua mau, sau 12 năm thọ Thập giới Sa Di Ni, năm Giáp Thân, 1944, SB được thọ Cụ Túc Giới tại Giới Đàn Thuyền Tôn do Hòa Thượng Giác Nhiên làm đàn đầu.

Kể từ khi xuất gia cho đến ngày đầy đủ giới phápTam Đàn cụ túc, SB luôn có mặt trong mọi hoàn cảnh Phật sự, nơi nào cần SB đều có mặt để chung lo Phật sự nơi đó, không phân biệt thành phần xã hội. SB trang trải tình thương yêu đến cho tất cả, do vậy SB đã thể hiện tấm lòng phụng sự Phật pháp đến với mọi người đều được tốt đẹp. Tấm lòng của SB đã được trân quý nhất mực, kể cả chư Tăng thời bấy giờ.

III.  Hành Trạng Hóa Duyên:

SB xây dựng Ni Viện đầu tiên cho Ni giớiNi Viện Diệu Đức, Huế, SB sáng lập các chùa Ni khác như: Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân - Huế, Bảo Thắng - Hội An, Bảo Quang - Đà Nẵng, Tịnh Nghiêm - Quảng Nam, Ni Viện Diệu Quang - Nha Trang. Ở miền Nam, SB sáng lập Ni Trường ở Sa Đéc, Ni Viện Từ Nghiêm ở Sài Gòn. SB cũng góp công xây dựng Đại Học Vạn Hạnh cùng với chư Tôn túc Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Minh Châu…

Ngoài những Phật sự xây dựng chùa viện, SB còn góp phần không nhỏ trong việc khai sáng các Cô Ký Nhi Viện ở miền Trung, như Cô Nhi Viện Tây Lộc - Huế… SB thành lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách, Nguyệt San Liên Hoa - năm 1952 do Hòa Thượng Đôn Hậu làm Chủ nhiệm, Hòa Thượng Đức Tâm làm Chủ bút, SB là quản lý, biên tập viên.

IV.           Công Trình dịch thuật của SB gồm:

-         Thành Duy Thức Luận

-         Du Già Sư Địa Luận

-         Lăng Già Tâm Ấn

-         Di Lặc Hạ Sanh Kinh

-         Đại Trí Độ Luận

-         Trung Quán Luận Lược Giải (Long Thọ Bồ Tát)

-         Hiển Thật Luận (Thái Hư Đại Sư)

 

Ngoài những dịch phẩm trên, SB còn sáng tác nhiều thơ văn để khuyến tấn người đời tu tập, cũng như giáo dục người phụ nữ thời bấy giờ.

Trong đời sống hằng ngày, tuy bận rộn Phật sự vừa đối ngoại, đối nội lo toan nhiều việc nhưng SB vẫn không xao lãng công hạnh tu hành, tham thiền, niệm Phật. Tuy mang thân người nữ nhưng SB không có tính nữ nhi thường tình, hy sinh đời mình phụng sự cho lý tưởng tu tập Bồ Tát Đạo. Chính vì lý tưởng Bồ Tát Đạo này, SB đã không phát nguyện sinh về Tịnh Độ mà nguyện trôi lăn trong sinh tử luân hồi để làm lợi ích chúng sinh. Vào thời bấy giờ các Sơn Môn Thừa Thiên – Huế, quý Ôn đều biết hạnh nguyện của SB, quý Ôn kể lại nhiều câu chuyện về tánh đức, hạnh lành của SB thể hiện qua đời sống hằng ngày, qua tinh thần phụng sự Phật pháp, lợi lạc quần sanh.

V.  Cuối Đời Hành Đạo:

Suốt đời đem thân tu tậphành đạo, năm 1978 SB trải qua một cơn bạo bịnh, dứt hơi thở cuối cùng, trong lúc chư Tăng Ni vây quanh Niệm Phật tiếp dẫn vừa dứt, một sư cô cảm thương bật khóc thành tiếng, SB giật mình tỉnh dậy. SB nói: “Có gì mà quý cô khóc, sống chết là chuyện thường tình của người tu hành, ta đã thấy cảnh Tịnh độ trang nghiêm rồi, quả thật cõi ta bà không bằng, nên ta nguyện ở cõi ta bà để tùy duyên hóa độ.” Từ đó, SB tiếp tục con đường hoằng pháp lợi sanh suốt 19 năm sau.

Thời gian đã đến, hạnh nguyện đã tròn, SB thâu thần thị tịch vào 2 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu, nhằm ngày 23 tháng 9 năm 1977, hưởng thọ 93 tuổi đời, 53 hạ lạp.

Một tiểu thư con nhà quan, quyền quý, giàu sang, nhưng SB đã từ bỏ, không lấy đó làm lợi ích cho bản thân, danh lợi cho riêng mình sống đời thế tục, mà đời sống ấy chính là phương tiện để làm lợi đạo ích đời. Sự nghiệp của SB để lại cho hậu thế tương đối khá nhiều: Chùa Viện, Ni Viện, cơ sở vật chất, văn hóa, giáo dục… cho GH. Riêng đời sống tâm linh, sự nghiệp tinh thần thì ngôn ngữ thế gian hữu lậu không thể nói hết được, sự tu chứng của SB thì mấy ai hiểu được. Do vậy, xin chắp tay cầu nguyện SB hồi nhập ta bà hiện thân người nữ để tiếp tục hướng dẫn, chấn chỉnh Ni giới tinh tấn tu hành, tinh nghiêm đời sống đạo, như hành trạng của SB còn ngời sáng trong tâm của tất cả Ni chúng hôm nay.

VI.   Nghịch Hạnh Độ Đời Kham Nhẫn

“Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp

Con xin lăn lóc cõi ta bà”

 

Năm 1932, sau khi lo toan việc nhà, SB xuất gia đầu Phật, sống đời tương chao của chốn Thiền Môn. Từ đó SB đã phụng sự tất cả trong khả năng của SB, từ việc chăm lo xây dựng chùa viện tại địa phương, cho đến các vùng phụ cận, xa hơn nữa là Saigon, miền Nam nước Việt. Sư Bà đã đem hết tâm huyết lo chấn chỉnh bên Ni giới, lo giáo dục hàng phụ nữ thời bấy giờ. Từ tinh thần hy sinh, phụng sự ấy SB đã hoan hỷ tham gia công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo, bình đẳng tín ngưỡng trước sự đàn áp của chế độ Ngô Đình Diệm. SB xin phát nguyện tự thiêu trước tiên trong công cuộc đấu tranh này. Chúng ta hãy nghe lại đôi dòng vấn đáp của SB và chư vị Tôn Túc thời bấy giờ:

“Một hôm tôi được mời về chùa Từ Đàm họp, Thượng Tọa Trí Quang nói:

- Miền Nam im lìm như vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng?

Thượng Tọa Thiện Minh nói:

- Phải có người hy sinh mới xong.

Tôi nói:

- Hy sinh đây là chết phải không?

Thượng Tọa Trí Quang đáp:

- Hy sinh trong ý nghĩa thiêu thân để bảo vệ chánh pháp.

- Vậy, kính bạch chư Tôn Túc, cho phép con đứng đầu đội cảm tử.

Hòa Thượng Thiền Tôn hỏi:

- Hòa Thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâmcho phép không?

Hòa Thượng Mật Hiển nói:

- Vị pháp hy sinh ai lại dám cấm?”

(thuvienhoasen.org)

 

Sau đó, SB viết một bức thư gửi cho chư Tôn Đức miền Nam, ký tên phát nguyện tự thiêu. Sau đó, SB cùng người chị ruột là SB Diệu Huệ vào Saigon để chuẩn bị cho công việc hy sinh, tự thiêu để bảo vệ Phật pháp được trường tồn, cho quê hương, dân tộc được tự do hạnh phúc. Nhưng có lẽ nhân duyên chưa tròn, nên sau khi vào Saigon ở chùa Từ Nghiêm, SB được mời về Ấn QuangHòa Thượng Thiện Hoa, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo cho biết là đã có Hòa Thượng Quảng Đức phát nguyện tự thiêu rồi. Khi nghe tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt, SB đã xúc động, thành tâm làm bài thơ khóc Hòa Thượng:

“Thầy ơi! Con biết tính sao đây

Lễ kính lòng đau trước Thánh Thầy

Lửa dậy lưng trời thân chẳng động

Dầu loang khắp đất ý không lay

Tiêu diêu Cõi Tịnh, Thầy theo Phật

Lận đận trần gian con nhớ Thầy

Phật tử Việt Nam còn nhớ mãi

Nét son lịch sử vẫn không phai”

(Hồi ký – Đường Thiền Sen Nở - SB Diệu Không)

 

Trên con đường tu tập, SB quan Niệm phụng sự cho chúng sinhcúng dường chư Phật, từ ý niệm này SB luôn xông xáo vào hiện tình xã hội để cứu nhân độ thế, để xốc dậy phẩm giá người phụ nữ thời ấy. SB đã xây dựng Hội Nữ Công Gia Chánh – Huế do Nữ sĩ Đạm Phương thành lập. Cảm kích tấm lòng phụng sự của Nữ sĩ Đạm Phương, SB đã làm bài thơ tặng Hội Nữ Công:

“Nữ Công sáng lập tại Thừa Thiên

Kinh tế nâng cao bước nữ quyền

Gánh vác giang sơn thân gái Việt

Duy trì nòi giống đất Rồng Tiên

Công dung tinh tấn không lười biếng

Ngôn hạnh đoan trang ấy chính chuyên

Tất cả chị em nên gắng bước

Noi gương Trưng Triệu mãi lưu truyền.”

 

SB đã thật sự dấn thân vào đời ác năm trược để hóa độ mọi người, làm lợi ích cho tha nhân mà không cầu mong chóng thành quả Thánh. SB chỉ một lòng lo chấn chỉnh Ni chúng, thành lập nhiều Ni Viện từ Huế vào Nam để tạo thành sự sinh hoạt đồng bộ với chúng Tăng. Vì tinh thần phụng sự cho xã hội, cho cộng đồng nữ giới tích cực, SB phát nguyện xuất gia, đầu Phật làm kẻ tu hành, sống nơi chốn nhà Chùa, sớm kinh tối kệ, những mong cứu vớt mọi người, mong sao được an lành hạnh phúc. Tâm cứu độ rộng lớn, tâm hy sinh cao cả làm rung dộng lòng người, Nữ sĩ Đạm Phương đã làm thơ tặng SB:

“Khoác áo nhu hòa thật khỏe không

Hiếu tình hai chữ trả đều xong

Thờ thân nuôi trẻ hai triêng nặng

Mến đạo thương đời một điểm trong

Công quả đã tròn nền Diệu Đức

Phẩm tài chỉ kém bạn Phương dung

Nêu cao đuốc tuệ gương bồ liễu

Như mảnh trăng tròn giữa biển Đông”

 

Đã nguyện dấn thân vào đời để tu tập, thì SB đâu có ước nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ. SB đã phụng hiến khả năng của mình qua hai phạm trù Đạo pháp và dân tộc. Về mặt Đạo pháp, như đã nói ở trên, SB chăm lo xây dựng chùa viện, cùng sát cánh với chư Tăng để hoằng dương Phật pháp nơi cõi ta bà này. Từ kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục… SB đều hiện thân khắp nơi để chu toàn Phật sự, không nề hà quản ngại tấm thân nhi nữ thường tình. Về mặt dân tộc, SB luôn đấu tranh đòi hỏi cho công cuộc tự do, dân chủ. Dưới thời Pháp thuộc, SB đích thân đối diện với quan lại của Triều đình Huế đòi hỏi công bằng, đòi hỏi thực thi dân chủ cho người dân. SB đã mang đạo Giải Thoát vào đời để mong tạo sự an lạc, Tịnh độ là đây.

SB nghĩ nếu rời khỏi nhân gian để cầu mong giải thoát thì khó quá, chi bằng tu tậpgiải thoát ngay trong cuộc đời này. Sự giải thoát này là thành quả của tinh thần phụng sự, hiến dâng cho tất cả chúng sinh. SB đã chọn nơi đây làm đạo tràng tu tập cho chính mình. Do đó, SB đã làm bài thơ nói lên tâm sự của chính mình:

“Ta bà Tịnh Độ ở đâu xa

Chỉ tại lòng ta niệm chánh tà

Chánh niệm trang nghiêm thành Tịnh Độ

Tà niệm vận chuyển hóa ta bà

Vô tâm chánh trítâm Phật

Hữu ý mê tình ấy tánh ma

Tà chánh đều mong vô lậu giới

Ta bà Tịnh Độ ở tâm ta.”

(chuyenluan.net)

 

Nhìn lại cuộc đời tu hành xuất thế gianphụng sự hiến dâng cho thế gian của SB là cả một tấm lòng nhiệt thành, quý kính, giờ đây bên Ni giới mấy ai có được hình ảnh cao thượng như SB. Khó tìm ra trong xã hội đương thời một hình ảnh từ hòa, nhân hậu, một tánh đức nhu nhuyễn, khoan dung như SB đã hiện thân vào những thập niên 30-40 ấy.

Sự chào đời của một cô bé nơi miền sông Hương núi Ngự đã làm đẹp cho quê hương xứ Huế thương yêu, đã làm rạng danh người phụ nữ đương thời, sống lại đúng nghĩa của bậc nữ lưu anh kiệt. Cô bé ấy lớn dần theo thời gian để rồi trở thành một SB danh đức trong dòng chảy của chốn tòng lâm tự viện. Xứ Huế là cái nôi Phật pháp miền Trung. Hôm nay, hàng Ni chúng phải chí thành ngưỡng vọng, thành tâm đảnh lễ công đức cao dày của SB mà noi gương tiến bước theo công hạnh tu tập và giá trị phụng sự của SB, ngõ hầu báo đáp ân sâu đối với SB trong muôn một.

 

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni,

Chúng con thành tâm đảnh lễ chư Tôn Đức Đại Tăng trong ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Tổ Sư lần thứ VIII tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu do Hòa Thượng phương trượng Thích Bảo Lạc tổ chức, tài trợ cho chương trình đại lễ được thành tựu viên mãn. Trước Đại Tăng trang nghiêm, thanh tịnh chính là ý thức Về Nguồn trong sự tư duy mẫn cảm thâm sâu, trong tinh thần hòa hiệp của bản thể Tăng già hằng lưu xuất. Một hội chúng Tăng già hiện hữu bất cứ nơi đâu, thì Phật pháp vốn có nơi đó, ấy là Niềm bình an hạnh phúc của các bậc chúng Trung Tôn trên con đường hoằng truyền chánh pháp.

Thành tâm kính chúc chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng cùng Đại Tăng pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ để hoàn thành công cuộc hoằng pháp nơi hải ngoại này, để từ đó chúng ta luôn tưởng nhớ hình ảnh của chư vị Lịch Đại Tổ Sư được phụng thờ nơi Hậu Tổ mà thấy được hành trạng của quý Ngài luôn hiện hữu trong mỗi tâm thức của chúng ta. Trong ý thức Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư bừng sáng, làm sống dậy ngụm nước đầu nguồn, sức sống uyên nguyên của dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

 

NamChứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

Sydney, Úc Châu, Chùa Pháp Bảo

Ngày 27 tháng 9 năm 2014

Thích Nguyên Siêu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24507)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26031)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13784)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13187)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22073)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19084)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10010)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11922)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13046)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15198)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10547)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21837)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10141)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9853)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9755)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10195)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27467)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17850)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13203)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25176)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34682)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26776)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19077)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13091)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9015)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9459)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9146)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11803)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18528)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8789)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10677)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10966)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28008)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17882)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14418)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16368)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13211)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15553)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14700)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7604)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17064)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8400)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30741)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant