Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhận diện và yêu mến cuộc đời

20 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14337)
Nhận diện và yêu mến cuộc đời

NHẬN DIỆN VÀ YÊU MẾN CUỘC ĐỜI
Thích Thái Hòa

Có nhiều vị tương đối có chút trí thức và ngay cả một vài Phật tử cũng
thường cho mình là trí thức Phật giáo, đã gặp tôi nói chuyện và đề
nghị tôi nên góp phần vào việc “hiện đại hóa Phật giáo”.

Tôi đã cười và nói với các vị ấy rằng: “Đạo Phật không cần hiện đại
hóa, mà các anh nên hiện đại hóa cách nhìn và cách tu của các anh cho
thích hợp với đạo Phật”.

Ở trong kinh Đức Phật đã từng dạy: “Những gì Ngài đã trình bày ở trong
giáo pháp, phần đầu là thiện, phần giữa là thiện và phần sau là
thiện”.

Thiện do Đức Phật trình bày, thiện ấy là tốt đẹp, cao thượng và hoàn
chỉnh. Thiện ấy là xuyên suốt mọi thời gian mà không phải từng giai
đoạn. Và thiện ấy là xuyên suốt mọi không gian mà không phải bị đóng
khung cục bộ, trong một xứ sở. Vậy, ta hiện đại hóa đạo Phật là ta hiện
đại hóa cái gì nơi đạo Phật?

Những gì Đức Phật dạy là khế lý. Vì chính nó là chân lý do tự thân
Ngài chứng nghiệmgiác ngộ. Nó như vậy là như vậy. Ta muốn làm cho
nó cũ cũng không được và muốn làm cho nó mới cũng không xong. Vậy, ta
hiện đại hóa cái gì nơi chân lýĐức Phật đã chứng ngộ?

Những gì Đức Phật đã dạy là khế cơ. Lời dạy khế cơ, là lời dạy thích
ứng với thực tế, không viễn vông, mơ hồ, đúng với trình độ và hoàn
cảnh của con người hay chúng sanh.

Lời dạy khế cơ là lời dạy thích ứng với nghiệp lực của chúng sanh
có khả năng làm thay đổi nghiệp lực ấy thành nguyện lực. Vì do nghiệp
lực chúng sanh sai khác, nên căn cơ, trình độ của họ sai thù, vạn
biệt, vì vậy trước khi vận chuyển pháp luân, Đức Phật đã quán chiếu
tường tận về nghiệp duyên của chúng sanh, để chuyển vận giáo pháp cho
thích ứng, nhằm giúp chúng sanh chứng nghiệmgiác ngộ chân lý theo
điều kiện và tầm mức của họ.

Tầm mức trình độ của họ ngang đâu, thì họ hiểu lời Phật dạy ngang đó,
chứ không phải Đức Phật và lời dạy của Ngài, ngang nơi tầm mức họ
hiểu. Đức Phật và lời dạy của Ngài không một ai có thể hiểu hết, ngay
cả những vị Bồ-tát còn một đời nữa sẽ được bổ xứ thành Phật, vậy ta là
ai mà đòi hiện đại hóa đạo Phật? Vì Phật thì không cần phải hiện đại,
vì Ngài là xuyên suốt cho mọi thời đại.

Và những gì Đức Phật dạy là khế thời. Vì nghiệp lựcquả báo của
chúng sanh không nhất định, không có người nào giống người nào, và
cũng không có loài nào giống loài nào, và cũng không có thời đại nào
giống thời đại nào. Tại sao? Vì nó luôn luôn vô thườngbiến chuyển
theo duyên để khởi hiện hay ẩn tàng. Và tuy nó hiện khởi hay ẩn tàng,
nhưng nó vẫn luôn luôn thống nhất trong một dòng chảy của nghiệp. Thời
đại nào cũng liên hệ đến nghiệp của chúng sanh, và từ nơi nghiệp thiện
ác của chúng sanh mà biểu hiện.

Nên, pháp của Đức Phật dạy là để chuyển hóa nghiệp chủng xấu ác của
chúng sanh, chứ không phải chạy theo nghiệp chủng của chúng sanh để
hiện đại hóa đạo Phật.

thời đại nào, chúng sanh cũng cần có an lạchạnh phúc, cũng cần
tự dogiải thoát. Họ muốn vậy, nhưng không thể, là vì do nghiệp
chủng xấu ác của họ. Vậy, muốn có hạnh phúcan lạc, giải thoát
tự do, thì tự thân của họ phải chuyển hóa nghiệp chủng xấu ác; họ phải
biết đặt gánh nặng nghiệp chủng xấu ác của họ xuống để bước tới và đi
lên.

Pháp của Phật, nếu ai thực hành, thì sẽ có khả năng giúp họ chuyển hóa
những nghiệp chủng xấu ác ấy để thành tựu đời sống an lạc và hạnh
phúc, giải thoáttự do. Và vì vậy, pháp của Phật là thích ứng cho
mọi thời đại của chúng sanh.
Vì vậy, ở đâu và lúc nào trong ba cõi, pháp của Phật cũng thích ứng
với những khát vọng cao quý của chúng sanh, nên pháp của Phật dạy, gọi
là khế thời.

Lại nữa, pháp của Phật không phải chỉ có một pháp môn mà có đến vô
lượng pháp môn để đáp ứng nhu cầu tu học cho hết thảy chúng sanh. Nếu
ta là người tu học có chất liệu của trí tuệtừ bi, và là người có
tâm nguyện hoằng pháp, thì ta trình bày pháp môn này cho chúng sanh tu
học, nếu không thích ứng, thì ta hãy trình bày pháp môn khác; nếu ta
trình bày bằng phương pháp này mà họ không hiểu, thì ta trình bày bằng
những phương pháp khác. Nghĩa là chân lý giác ngộ thì chỉ có một, mà
phương pháp để đạt ngộ, lại có nhiều cách, có nhiều pháp môn. Vì vậy,
ta không nên quá cứng kẹt ở pháp môn này mà chỉ trích pháp môn kia, vì
làm như vậy, dù vô tình, ta vẫn tạo ra sự phân cắt, chia rẽ và bè
phái, tạo nên sự bất ổn cho xã hội.


Một người muốn hoằng pháp theo pháp của Đức Thế tôn, điều kiện trước
hết là vị ấy phải học pháp và hành pháp do Đức Thế tôn giảng dạy, để
tự thân giác ngộthể nhập chân lý tối hậu của pháp mà Ngài muốn
nói.

Sự thể nhập ấy, gọi là khế lý. Nếu không có khế lý, lấy gì để khế cơ
và khế thời? Khế cơ và khế thời phải từ nơi khế lý mà biểu hiện. Và vì
vậy, người hoằng pháp biết khế cơ và khế thời cũng phải có khả năng
chuyển tải nội dung của khế lý.

Nên, khế cơ và khế thời cũng chỉ là cách nói của khế lý mà thôi. Nếu
không, thì khế cơ và khế thời cũng chỉ là những sáng tạo tùy tiện,
chúng có tác dụng gây mê, làm dịu thần kinh cho những người khó ngủ mà
không phải là đạo lý chân thực.
Và nếu ta không học pháp và hành pháp để chứng nhập lý tính chân thực
và từ nơi lý tính chân thực ấy, mà biểu hiện cuộc sống của trí tuệ
từ bi, thì ta lấy gì để hoằng pháp?

Phải chăng hoằng pháp là mượn ngôn ngữ của trí tuệtừ bi để phơi
bày kiến thức về đạo Phật của mình cho người khác? Hoằng pháp như vậy,
thì chẳng có pháp nào của Phật để hoằng, mà ta chỉ phơi bày bản ngã
của ta, tạo ra những rối rắm và phe nhóm cho xã hội vậy.

Tại sao? Vì ngôn ngữ trí tuệ không phải là trí tuệngôn ngữ từ bi
không phải là từ bi. Cũng vậy, ngôn ngữ diễn tả cái nón, tự thân của
nó không phải là cái nón. Cái nón phải là cái nón của tự thân, nó
không hề dính dáng gì đến những ngôn ngữ của người đang diễn tả về nó.
Vì nón và người đang diễn tả về nón là hai thực thể khác biệt, hai
nhân duyên khác nhau vậy.

Nên, tôi đã nói với quý vị ấy rằng: Mình cứ thực tập những gì Đức Phật
đã dạy, ngay trong những điều kiện mà mình đang sống, để có thể tháo
tung những hạt giống kiêu mạnchấp ngã đang ràng buộc nơi tâm mình,
khiến cho tâm mình càng lúc càng sáng và càng lúc càng có tự do.

Ta đem tâm trong sángtự do ấy, để tiếp xúc với mọi sanh vật, ta sẽ
phát hiện được nhiều cái mới nơi ngoại cảnh, qua cách nhìn của ta. Và
một lần tiếp xúc lại là một lần mới. Mới ngay từ nơi cách nhìn và cách
ứng dụng của ta.

Cũng vậy, khi ta đặt la bàn xuống một điểm và ta nhìn mọi vật từ một
điểm của la bàn, thì mọi vật sẽ hiện nguyên hình cho ta từ một điểm ấy
để ta nhận diện. Và cũng la bàn ấy, ta chỉ cần nhích cái kim của la
bàn sang một điểm khác, thì cũng từ nơi một điểm khác ấy của la bàn,
mọi vật sẽ hiện nguyên hình cho ta từ một điểm mới ấy để cho ta nhận
diện. Và cứ như vậy, ta chỉ cần thay đổi một điểm, một cự ly là ta có
một cách nhìn mới, một cách phát hiện mới đối với mọi sự vật qua cái
la bàn của ta. Nên vua Trần Nhân Tông nói: “Nhất hồi niêm xuất, nhất
hồi tân”. Nghĩa là một lần đưa ra là một lần mới tinh. Một lần nhích
la bàn là một lần ta có cách nhìn mới đối với mọi sự vật.

Vì vậy, tâm ta đầy những hạt giống vô minh, kiêu mạnchấp ngã, ta
cố gắng nói cho mới, trình bày cho mới và nỗ lực làm cho mới, thì nó
vẫn là cũ. Và mỗi khi ta biết ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống
của ta, thì những hạt giống vô minh, kiêu mạnchấp ngã nơi tâm ta
tự nó lắng xuống, bấy giờ tâm giải thoát và sự sáng trong nơi tâm ta
biểu lộ một cách tự nhiên, thì cho dù ta nói chuyện cũ mà vẫn thành
chuyện mới, ta làm việc cũ mà vẫn thành việc mới, hay khi ta nói hoặc
làm, ta chẳng cần quan tâm đến cũ và mới gì cả, mà lời nói của ta vẫn
khế lý, khế cơ và khế thời như thường.

Nên, mới hay cũ, hợp thời hay không hợp thời là do khả năng diệt trừ
hay không diệt trừ những mê lầm của phiền nãovô minh nơi tâm ta.

Mỗi ngày, ta nhận diện những phiền não nơi tâm ta và làm cho chúng
càng lúc càng lắng yên là mỗi ngày tâm ta đều mới. Ta hãy đem cái mới
ấy để nhận diện và yêu mến cuộc đời.

Thích Thái Hòa

-Tạp chí HƯƠNG THIỀN SỐ 2 Xuất Bản ( H.T. Thích Nhựt Chiếu Chủ Biên)
http://www.thuviencophap.org/2011/04/nhan-dien-va-yeu-men-cuoc-oi.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 822)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 801)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 945)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 833)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1005)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 857)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1013)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 953)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 908)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 913)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1014)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1153)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1615)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1163)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1112)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1485)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1365)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1378)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1354)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1207)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1265)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1325)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant