Tây Du Ký
Nguyên Tác: Ngô Thừa Ân
Hồi 1
Khí thiêng kết tụ sanh khỉ đá
Tâm thành tu niệm đạo nhân gian
Cứ theo truyền thuyết Trung Hoa thì kẻ sanh trước loài người là ông Bàn Cổ làm chúa thiên hạ. Kế đó là vua Thiên Hoàng , Ðịa Hoàng và Nhơn Hoàng, gọi là Tam Hoàng. Rồi đến vua Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh, Nghiêu và Thuấn gọi là Ngũ Ðế .
Thuở ấy, Trung quốc chia làm
bốn châu: Ðông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hạ châu,
Nam Thiện Bộ châu, Bắc Cư Lư châu.
Ðặc biệt là nơi ven biển
lại có một nước tên Ngao Lai. Trong nước
ấy có một hòn núi gọi là Hoa Quả Sơn (Núi có
nhiều thứ hoa quả lạ) đứng sừng
sững giữa trời, bao phủ đồi cây gò đất.
Trong cảnh hùng tráng âm u ấy có một tảng đá
rất lớn , bề cao ba mươi sáu thước năm
tấc, chu vi hai mươi bốn thước, trên mặt
có chín lỗ thông thiên, bốn bên có tám hang thông ra
rừng rậm!
Thật là một tảng đá dị thường, "Cấu Tạo từ thuở khai thiên lập địa" mà loài người không ai có thể tưởng tượng nổi. Với chiều cao vượt lên muôn vật trên mặt đất ấy tảng đá không bị che khuất, hứng chịu sức nóng và lạnh của nhật nguyệt, lần lần tụ tinh nứt ra một viên trứng đá.
Trong lâu năm, trứng ấy tượng
hình, rồi gặp một trận gió lớn nở ra
một con Khỉ đá, giống tạc hình người,
đủ tai, mắt, miệng, mũi và tay chân rất lanh
lẹ.
Khỉ đá đi đứng khắp vùng,
cặp mắt chói lòa như hai cái đuôi sao Bắc Ðẩu
.
Gặp lúc Ngọc Hoàng đang ngự nơi
Linh Tiêu điện, thấy hào quang từ địa
giới chói lên lấy làm lạ, sai thiên thần đến
hỏi:
- Vì cớ gì lúc nầy nơi trần
gian lại có hào quang chói sáng?
Thiên thần không ai biết.
Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn,
Thuận Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử.
Hai thần tuân lệnh đi do xét
một lúc, trở về báo:
- Tâu Thiên Hoàng! Hào quang đó là đôi
mắt của một con Khỉ đá!
Ngọc hoàng ngạc nhiên nói:
- Cõi trần gian, sao có loài khỉ phi thường?
Hai thần tâu:
- Nơi Ðông Thắng Thần Châu có
một hòn đá trên núi Hoa Quả, cảm khí âm dương,
chứa hơi nhật nguyệt, nứt ra một trứng
đá . Trứng ấy nở ra một con Khỉ , đôi
mắt sáng quắc. Mỗi khi hắn ngó lên trời là hào
quang chói lọi.
Ngọc Hoàng hỏi:
- Thế thì phải làm cách nào để
tiêu diệt luồng nhãn khí đó?
Hai thần tâu:
- Chẳng hề chi! Hiện nay nó đang
sống bằng hoa quả. Hạ thần tưởng
chắc một thời gian đôi mắt nó sẽ mờ
đi.
Ngọc Hoàng an lòng bỏ qua câu chuyện đó.
Thời gian qua trong cánh núi rừng hoang vắng, Khỉ đá đói ăn trái cây khát uống nước suối, ngày dạo khắp núi non, tối tìm hang động ẩn thân, làm bạn với loài hươu nai , khỉ, vượn khác.
Cái thời gian ấy cũng chẳng ai
biết là bao lâu, người ta chỉ thấy Khỉ
đá lúc ẩn, lúc hiện, từ nơi nầy đến
nơi khác, lúc ở nơi thanh vắng, lúc lại đến
gần những vùng lân cận làng mạc xa xôi, để
bắt chước lối sanh hoạt và tiếng nói
của loài người.
Cũng trong thời gian đó, Khỉ
đá gần gũi với bầy khỉ bạn, tập tành
nhau lối ăn nói, xử sự trong có vẻ giống người.
Ngày kia, gặp lúc khí trời nóng
bức, Khỉ đá dẫn cả đoàn ra hóng mát nơi
bóng cội tùng.
Gió rừng ào ạc, trộn lẩn
vối tiếng róc rách của dòng suối chảy xa xa.
Khỉ đá bảo bầy khỉ
nhỏ:
- Chúng ta hãy tìm suối nước
tắm cho mát.
Bầy khỉ nhỏ tán thành , tung tăng
nhảy nhót về phía khe sâu. Ðó là một con khe lớn,
nước trong vắt, uốn quanh theo rặng núi.
Bầy khỉ nhỏ nhìn làn nước
nhăn mặt bảo nhau:
- Chưa biết khe sâu cạn, sao dám
xuống tắm?
Khỉ đá nói:
- Ðứa nào dám xuống trước ta
sẽ tôn làm vua.
Cả bầy khỉ đều lắc
đầu kinh sợ.
Khỉ đá nói:
- Ðể ta xuống đó cho mà xem.
Dứt lời, co chân nhảy ùm
xuống nước.
Nhưng lạ làm sao, vừa lặn
khỏi làn nước, Khỉ đá mở mắt ra trông
thấy dưới đó là một khoảng không gian
trống rỗng. Gần đó có một chiếc cầu
ẩn khuất trong kẹt đá. Bên cầu cũng cây cũng
trái xanh tươi, dưới cầu cũng nước
trong veo chảy nghe róc rách. Cảnh lạ đó gợi vào
tánh tò mò, Khỉ đá uốn mình nhảy vọt lên
cầu, chạy ngược vào trong. Càng vào sâu, phong
cảnh càng thêm u nhã.
Bên trong, sừng sững một toà nhà
rộng lớn, trước cửa cổ một tấm
biển, khắc mấy dòng chữ:
"Hoa Quả Sơn phước địa
Thủy Liêm động, động thiên"
Nghĩa là :
"Núi hoa quả đất phước
động Thủy Liêm hang trời"
Vừa bỡ ngỡ vừa mừng
thầm, Khỉ đá trở lại cầu, tung mình
nhảy lên mặt nước, mặt mày hân hoan, nhìn lũ
khỉ nhỏ khịt mấy cái .
Lũ khỉ nhỏ thấy Khỉ đá
ló đầu lên, đã vội xúm đến, quấn quít
hỏi:
- Suối nước sâu cạn? Có gì
lạ chăng?
Khỉ đá nói:
- Không sâu, không cạn, vì dưới
đó không phải nước mà là một cảnh phi thường.
Lũ khỉ nhỏ ngạc nhiên, nhao
nhao hỏi:
- Cảnh thế nào mà phi thường?
Khỉ đá vừa đưa tay ra
dấu vừa giảng giải:
- Có một cái cầu rất đẹp,
bên cầu cỏ một tòa nhà uy nghi, lộng lẩy .
Một con trong lũ khỉ nhỏ
hỏi :
- Trong ngôi nhà ấy có giêng gì chiếm
cứ chăng?
Khỉ đá nói:
- Không có gì cả! Chỉ có lò, chén, nồi, chảo, giường,
ghế. Tất cả đều bằng đá .
Nghe chuyện lạ, bầy khỉ nhỏ hớn hở nói:
- Thế thì chúng ta đem nhau xuống đó làm chỗ
dung thân tránh cơn mưa gió phủ phàng nơi núi
rừng hoang lạnh.
Khỉ đá gật đầu:
- Ðúng vậy! Trời đã dành riêng chỗ đó
cho chúng ta, bỏ qua uổng lắm.
Bầy khỉ nhỏ nói:
- Vậy anh nhảy xuống trước, chúng tôi theo sau.
Khỉ đá co chân nhảy ùm xuống, lũ khỉ con răm
rắp nhảy theo.
Chúng vừa nhảy xuống hang, vội vã lên cầu,
chạy qua toà nhà lớn.
Rồi cùng nhau vào, đứa bưng nồi, đứa
lấy chén, đứa lên giường, đứa
xuống bếp, lăn xăn ..phá phách một hồi
rồi ngồi lại rung đùi, nhịp vế.
Khi ấy Khỉ đá mới gọi cả lũ vào
hỏi:
- Lúc còn ở trên núi, chúng ta có hứa nhau, ai xuống trước
sẽ tôn làm vua, bây giờ bây quên lời đó sao?
Lũ khỉ nhớ trực lại, vội vàng đến
trước mặt Khỉ đá quì xuống, tôn làm đại
vương.
Khỉ đá mỉm cười truyền rằng:
- Từ nay, ta làm vua lấy hiệu là Mỹ Hầu Vương,
phong cho Vượn và Khỉ Ðột làm tả, hữu
Thừa Tướng .
Khỉ đá cùng ở với các khỉ con, sống trong
cảnh thanh nhàn, sáng lên chơi núi Hoa Quả, chiều
về ngủ động Thủy Liêm, không còn chung chạ
với các thú nơi rừng núi hoang lạnh. Hưởng
phước lạc gần ba trăm năm.
Một hôm trời trong gió mát, lũ khỉ bày tiệc
linh đình, vui chơi hỉ hả. Nhưng Khỉ đá
không vui, đôi mắt lờ đờ nhìn mây gió rồi
hai dòng lệ tuôn ròng. Lũ khỉ con ngạc nhiên
hỏi:
- Tiệc vui này, có điều gì làm cho Ðại vuơng
buồn chán?
Khỉ đá gạt lệ nói:
- Ta nay tuy sung sướng nhưng còn lo nghĩ nhiều
về mai hậu.
Bọn khỉ cười nói:
- Thế này là chúng ta diễm phúc lắm rồi, có nhà
cao cửa rộng, có hoa quả bốn mùa, ấm no đầy
đủ, còn đòi gì hơn?
Khỉ đá nói:
- Các ngươi thấy sao mừng vậy, đâu nghĩ
gì đến ngày mai! Tuy ta sống ẩn náu nơi
động, không vướng phép vua, không sợ loài thú
dữ, nhưng rồi chúng ta có thể sống mãi không già
chăng? Chừng đó tử thần chờ trước
cửa, làm sao giữ lại những ngày vui như
vậy?
Bầy khỉ nghe hỏi, đứa nào cũng sợ
chết ngồi khoanh tay rầu rĩ!
Giữa lúc ấy, một con vượn già ngồi
phắt dậy nói lớn:
- Ðại vương biết trước lo xa, quả là
phi phàm vậy! Trên đời ai tránh khỏi chết,
trừ ba bậc: Tiên, Phật, Thánh Thần, có phép trường
sanh bất tử kia .
Hầu vương nghe nói, hỏi:
- Ba bậc ấy ở đâu, nhà ngươi có biết
chăng?
Vượn tâu:
- Bậc siêu phàm ấy thường ở nơi non tiên,
động đá.
Hầu Vương như nhẹ cơn buồn, khoan khoái nói
với các khỉ nhỏ:
- Mai nầy ta từ giã các ngươi, thả bước
phiêu lưu nơi chân trời, góc biển, tìm cho kỳ
được thuốc trường sanh bất tử.
Bầy khỉ rú lên khen:
- Hay lắm! Ðại vương đi thành công, chúng ta
sẽ được sống mãi, an hưởng nơi
động nầy.
Một con vượn già nói :
- Chúng ta hãy cùng lên núi Hoa Quả tìm nhiều trái quý
về thết tiệc tiễn hành Ðại vương.
Lũ khỉ nhỏ gật đầu hy vọng vị Ðại
vương của chúng sẽ tìm ra thuốc trường
sanh bất tử, cứu cho cả loài tránh khỏi cái
chết.
Sáng hôm ấy chúng rủ nhau lên núi Hoa Quả hái trái
đem về, nào là bàn đào, quả mận, nào là hạ lê, hoài sơ, huỳnh tính đặt tiệc ê
hề .
Hầu vương ngồi trước, dưới là quan
chức, tiếp đến là khỉ con vừa ăn
vừa đàm luận suốt ngày, không qua câu chuyện trường
sanh bất tử .
Hôm sau, Hầu vương dậy
sớm, bảo lũ khỉ bẻ nhiều tre kết làm bè.
Rồi từ giã, chống bè ra biển cả, mặc cho
gió dập sóng dồi, đêm sương ngày nắng!
Trót mấy ngày bơ vơ trên mặt biển, Hầu vương
nhìn chân trời bát ngát bao la, không biết đến nơi
nào, đành nhắm mắt ngồi liều, phó mặc cho
trời đất! Gió ngàn vi vút thổi, khiến bè tre
tấp vào bến Nam Thiện Bộ Châu. Nghe tiếng chim kêu
lẫn với tiếng người văng vẳng, Hầu
vương mở bừng mắt, xem thấy đất
bằng, làng mạc lưa thưa, lòng mừng khắp
khởi .
Hầu vương bỏ bè bước lên bờ, mấy
ngư phủ vừa thấy, ngỡ là loài yêu quái rùng rùng
bỏ chạy! Một ông lão khiếp đảm, quýnh chân
nằm chết điếng trên bãi biển. Hầu vương
chạy tới lột hết quần áo mặc vào,
giả người đồng nội, lần mò đến
tỉnh thành, học thêm tiếng người xứ
ấy.
Rồi Hầu vương lại tiếp tục cuộc hành
trình ngày đi, đêm nghỉ cố tìm cho được
động Tiên, cửa Phật.
Nhưng than ôi! Ði mãi chỉ gặp bọn đồ danh,
mưu lợi, không hề biết đạo là gì!
Hầu vương lưu lạc chín năm vất vả,
vượt núi băng ngàn mà chưa đem lại một
kết quả nào! Lòng buồn chán ngán!
Mấy tháng sau, đi đến Tây Dương biển
cả. Hầu vương nhìn ra khơi mây nước bao
la, lòng thầm nghĩ:
- Ta đi khắp bốn phương trời, sá gì mặt
biển này?
Nghĩ vậy, Hầu vương tìm cây kết bè
chống ra ngoài khơi, phó mặc cho mưa gào gió thét .
Sóng vỗ bè trôi, Hầu vương ngày nào cũng
chỉ thấy mây xanh và nước biếc! Thỉnh
thoảng một vài con cá rựa chạy sóng sượt
trên mặt nước. Hầu vương tưởng là
Hà thần hiện lên. Có lúc trời chớp lạch,
Hầu vương cũng ngỡ là thần tiên hiện
đến!
Mấy ngày sau, bè trôi đến miền Tây Ngưu Hạ
Châu, Hầu vương lại bỏ bè lên bờ, xảy
thấy núi cao chót vót, cây cối sum suê, hoa tươi xinh
đẹp liền dừng bước lẩm bẩm:
- Núi cao, may ra có "Thánh, Thần, Tiên, Phật"
Hầu vương quay lên núi, thoan thoát chuyển từ cây
này qua cây nọ, đu dây vượt suối, không bao lâu
đến đỉnh núi .
Nhưng nhìn quanh quất cũng chỉ
thấy toàn là cây núi mênh mông, gió rừng rào rạc, không
có bóng dáng "thần tiên".
Hầu vương ngồi lên tảng đá, ngước
mặt than:
- Thánh thần, Tiên, Phật nào hiểu được
lòng ta, lòng của kẻ chân thành đang ngày đêm mơ
ước!
Dứt lời, Hầu vương định xuống núi.
Bỗng có tiếng hát từ xa vọng lại:
Non xanh rừng rậm,
Gió vàng reo, lấm tấm lá khô bay
Mộng đời, vừng mây bạc
Lòng đời, chung rượu say!
Nghêu ngao vui thú đêm ngày
Búa Tiên củi quế, miễn đầy gánh thôi.
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Nghe tiếng người hát, Hầu vương
mừng quýnh lên, lảm nhảm:
- Thần tiên đây rồi! May lắm!
Liền chạy men theo tiếng hát. Ðến nơi, thấy
lão tiều đang hái củi, Hầu vương bước
tới thi lễ và cung kính thưa:
- Ðệ tử đến ra mắt, có điều chi
thất lễ xin thần tiên lượng thứ!
Lão tiều vội bỏ búa, nói:
- Chao ôi! Ông lầm rồi, tôi vốn người nghèo
khổ, làm nghề hái củi đổi gạo nuôi thân,
có đâu được bậc phi thường ấy!
Hầu vương ngơ ngác nói:
- Lạ thật, người không phải thần tiên, sao
nói chuyện thần tiên lưu loát vậy?
Tiều phu phì cười, hỏi:
- Tôi nói chuyện thần tiên bao giờ?
Hầu vương nói:
- Tiếng ca vừa rồi, tôi có nghe ông hát:
Gặp Tiên thỏ thẻ đôi lời
Ðâu nơi Cực lạc đâu nơi Huỳnh đình
Rõ ràng tiều ông là tiên vậy!
Tiều lão cười, đáp:
- Tôi không giấu gì ông, bài ca
ấy của Tiên ông dạy tôi để hát cho khuây
khỏa trong giờ mệt nhọc, không ngờ lọt
đến tai ông, chắc tôi phải chịu lời
khiển trách!
Hầu vương hỏi tiếp:
- Vậy thì Tiên ở đâu, xin tiều lão chỉ hộ
cho.
Tiều phu nói:
- Tiên ông hiện ở tại xóm tôi . Cách đây không
xa mấy, có một dãy núi tên là Linh Ðài phương
thốn sơn, trong có động Tà Nguyệt Tam Tinh, Tiên
ông hiệu là "Cu Bồ Ðề Tổ Sư", ở
đấy thu nhận đồ đệ rất nhiều,
song các đồ đệ bị đuổi cũng không
ít, hiện nay chỉ còn ước độ ba bốn mươi.
Ông muốn đến đó phải theo đường
nhỏ qua hướng Nam, chừng bảy tám dậm, là
tới động.
Hầu vương nhìn ông tiều năn nỉ:
- Ðường đi đến động ngoằn ngoèo
dễ lộn, mong ông thương đến, dẫn tôi cùng
đi về xóm, tôi xin hậu tạ.
Tiều lão lắc đầu đáp:
- Giúp ông tôi không nệ công lao, ngặt vì tôi còn cha
mẹ già, sớm chiều lo phụng dưỡng, phải
ở lại hái củi đổi gạo, không tiện làm
vừa lòng ông!
Nghe lão tiều than, Hầu vương cảm động,
đành phải bái biệt ra đi.
Núi rừng thăm thẳm, đá cao chồng chất, chông
gai hiểm trở. Hầu vương vốn quen miền sơn
dã , đi riết một hồi bảy tám dậm, quả
thấy một động lớn, cửa đóng kín
không có bóng người thấp thoáng. Trước đó,
một bia đá lớn đề mấy chữ "Linh
Ðài phương thốn sơn Tà Nguyệt tam tinh động"
Hầu vương hớn hở, nhảy nhót tung tăng.
Nhìn thấy vườn đào xum trái, liền phóc lên hái
mấy quả ăn đỡ lòng .
Giây lát có tiếng động. Một đồng-tử bước
ra hỏi:
- Ai cả gan dám vào đây ăn vụng đào?
Hầu vương vội vã nhảy xuống nói:
- Tôi từ xa tìm đến đây học đạo, không
phải kẻ trộm đào, xin tôn huynh hiểu cho.
Ðồng-tử nghi ngờ Hầu vương, nói:
- Anh thật lòng đến đây, tìm sư học đạo
sao?
Hầu vương thưa:
- Ðường xa ngàn dặm, không ngại gian lao, ngày đêm
lặn lội, tôi chỉ mong được làm đệ
tử nơi nầy.
Ðồng tử nhìn tướng mạo Hầu vương,
mỉm cười, nói :
- Sư phụ vừa thức dậy, sửa soạn
giảng kinh, dạy tôi ra rước người tu
niệm, có lẽ anh đây là phải?
Hầu vương mừng thầm, reo lên:
- Tiên ông quả là bậc tiên tri, xin tôn huynh đừng
ngần ngại. Chính là tôi vậy.
Ðồng tử gật đầu bảo:
- Ngươi cùng tôi vào ra mắt sư phụ.
Hầu vương tươi cười, nhí nhảnh theo
đồng tử vào động, nhìn thấy quang cảnh
uy nghiêm, nào cung châu, điện ngọc, nào phòng đọc
sách, nào chổ giảng kinh, đâu đó trang hoàng
rực rỡ. Thẳng đến trước Ngọc
đài, thấy Bồ Ðề Tổ Sư ngồi trên
ghế cao, bên dưới đệ tử đứng
hầu hơn ba chục.
Hầu vương bước đến sụp lạy lia
lịa, và thưa:
- Tiện nhân mộ đạo đến đây, xin ra
mắt thầy.
Tổ Sư hỏi :
- Ngươi tên họ là chi ? Từ đâu đến ?
Hầu vương thưa:
- Tôi ở Ðông Thắng Thần Châu, núi Hoa Quả, động
Thủy Liêm.
Tổ Sư nạt lớn:
- Kẻ ăn nói trớ trêu, tu hành sao được. Mau
đuổi nó đi!
Hầu vương sợ sệt vừa
lạy vừa nói:
- Lòng thành thật đâu dám trớ trêu, kính mong thầy
thương xót.
Tổ Sư nói:
- Ðường từ Ðông Thắng Thần Châu đến
đây cách hai cửa biển, và một cõi Nam Thiên Hạ
Châu, làm sao nhà ngươi đi được?
Hầu vương thỏ thẻ thưa:
- Tôi dùng tre kết bè, vượt qua hai cửa biển, trèo
non lặn lội hơn chín năm trời mới đến
đây, cúi xin thầy đoái tưởng.
Tổ Sư nói:
- Ngươi đi lâu ngày là phải! Vậy nhà người
tên gì?
- Tôi không có danh tánh. Nhưng ai rầy tôi không giận, ai
đánh tôi không hờn.
Tổ Sư cau mày nói:
- Ta muốn biết danh tánh nhà ngươi, ngươi khai
chi về tính nết.
Hầu vương thưa:
- Thưa thầy, tôi không cha mẹ!
Tổ Sư nói:
- Người sao không có cha mẹ, không lẽ cây đá
sanh ngươi sao?
Hầu vương thưa:
- Ðúng vậy! Nguyên nơi núi Hoa Quả có hòn đá
lớn, kết tinh nhật nguyệt lâu ngày, rồi
một đêm mưa vang lên tiếng nổ, đá ấy
nứt hai, sanh ngay tôi từ lúc đó.
Nghe nói, Tổ Sư mừng thầm hỏi:
- Như vậy là thiên địa cấu tạo ra ngươi.
Thôi ngươi hãy đi qua lại cho ta xem nào.
Hầu vương đẹp dạ, đứng phắt lên
chạy qua lại vài lần, rồi quỳ xuống nghe
dạy.
Tổ Sư cười nói:
- Nhà ngươi bộ tịch hệt như khỉ. Ðể
ta xét theo diện mạo mà đặt tên cho.
Hầu vương sụp lạy tạ
ơn. Tổ Sư nói:
- Ta muốn theo hình dung nhà ngươi, đặt họ Hồ,
nhưng vì chữ hồ bỏ khuyển bằng chỉ còn
chữ cổ, chữ nguyệt. Cổ nguyệt có nghĩa
là trăng già không tốt. Thôi ta đặt cho ngươi
họ Tôn, chữ tôn bỏ khuyển bằng còn
chữ tử, chữ hệ là còn trẻ, còn lớn, còn
khôn, tốt lắm!
Hầu vương mừng rỡ cúi đầu lạy
tạ và thưa:
- Mong thầy luôn tiện mở lượng từ bi đặt
tên luôn cho tôi, để dễ gọi lúc sai
khiến.
Tổ Sư nói:
- Trong đạo có mười hai chữ người ta thường
dùng "Quảng, Ðại, Trí, Huệ, Chơn, Như, Tánh,
Hải, Ðĩnh, Ngộ, Viên, Giác". Trong mười
hai chữ đó tính dồn tới ngươi nhằm vào
chữ Ngộ.Vậy ta đặt tên ngươi là Tôn
Ngộ Không.
Hầu vương khoái ý cười:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Từ nay tôi mới
biết được tên, xin chịu gọi là Ngộ
Không.
Hồi 2
Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật
Tài cao về xứ giết yêu ma
Hầu vương từ ngày được tên họ, Tổ Sư truyền học trò đem ra ngoài dạy nghi lễ, cách ăn ở, lối cư xử. Và giao việc quét trước dọn sau, tưới hoa nhổ cỏ, làm suốt gần bảy năm trời.
Một hôm trời trong gió mát, nắng dịu lướt qua cửa sổ, rọi vào điện ngọc long lanh, như thiên tào nhìn xem cuộc giảng kinh nơi tiên động. Tổ Sư ngồi trên, dưới điện học trò lẳng lặng nghe lời giảng dạy.
Ngộ Không nghe kinh thấm ý, cào tai, gãi mắt, trợn mắt nhướng mày, khoa tay múa chân đến nổi nhảy dựng ra ngoài hàng mà không biết.
Tổ Sư ngạc nhiên kêu hỏi:
- Nhà người sao vô lễ vậy? Mau
vào hàng nghe giảng đạo.
Ngộ Không thưa:
- Ðệ tử nghe lời thầy
giảng giải hay quá, khiến cho lòng thành thích ý,
nhảy múa không hay.
Tổ Sư nói:
-- Ngươi biết được
lời hay của kinh giảng, vậy người ở
đây bao lâu rồi, có biết chăng?
Ngộ Không thưa:
- Ðệ tử thưa biết mấy năm
mấy tháng. Chỉ nhớ hái củi trên núi này, gặp
đào chín ăn được bảy mùa.
Tổ Sư vừa cười vừa nói:
- Núi ấy, tên gọi Lang Ðào mỗi năm
một mùa trái chín, mà ngươi ăn được
bảy mùa, là bảy năm rồi đó. Nay ngươi
đã có trí nhớ ta muốn truyền dạy, chẳng
biết ngươi thích học môn nào?
Ngộ Không thưa:
- Mang ơn thầy dạy bảo, đệ
tử xin tùy sự lựa chọn của thầy.
Tổ Sư nói:
- Phép đạo có 360 cửa, ngươi
có thích học phép chư thuật không?
Ngộ Không thưa:
- Phép ấy ra sao?
Tổ Sư nói:
- Phép này biết trước mọi
việc lành dữ, phước đức.
Ngộ Không thưa:
- Vậy có sống lâu đời đời
chăng?
Tổ sư nói:
- Không thể sống lâu được!
Ngộ Không lắc đầu không
chịu học. Tổ Sư hỏi:
- Vậy ngươi chịu học phép
chư lưu chăng?
Ngộ Không thưa:
- Phép ấy thế nào xin thầy cho
biết?
Tổ Sư nói:
- Phép chư lưu làm được
thầy, được thuốc, được vái và
tụng kinh niệm Phật ...v.v
- Phép ấy có sống đời đời
chăng?
Tổ Sư nói:
- Học phép nầy muốn sống
đời, có khác nào trồng cột, tô vách!
Ngộ không sầm nét mặt, suy nghĩ
giây lâu, rồi nói:
- Thưa thầy, đệ tử
vốn người dốt nát không thấu nổi lời
cao kỳ, mong thầy phân rõ.
Tổ sư nhìn Ngộ không như dò ý,
nói:
- Ngươi muốn cất nhà cao,
trồng cột vào vách, ngoài xây tường. Tuy nhà
chắc không ngã, nhưng khi hư rồi, cột nằm
trong vách cũng mục nát luôn.
Ngộ không buồn bã đáp:
- Việc không bền, tôi không học,
xin thầy thứ tội.
Thấy Ngộ không buồn, Tổ Sư
bảo tiếp:
- Không hài lòng, ta sẽ dạy cho phép chư
linh, có sao đâu mà buồn vậy.
Ngộ không ngước mặt lên, nhìn
Tổ Sư như van xin:
Phép ấy thế nào? Nhờ thầy
dạy bảo?
Tổ Sư đáp:
- Phép tịch cốc này gọi là tham
thiền, chỉ ngồi làm thinh tịnh dưỡng tinh
thần thôi.
Ngộ Không hỏi vội:
- Ngôi làm thinh tịnh dưỡng, có
thể sống hoài được chăng?
Tổ Sư nói:
- Theo phép này, như đất mới
vỗ để vào lò gạch.
Ngộ Không ngớ ngẩn hỏi:
- Như thế nghĩa là sao? Xin thầy
giảng rõ?
Tổ Sư phì cười:
- Ðất tuy vỗ nên hình tấm
gạch, song mới để lên lò chưa nung chín, đem
ra dùng gặp nước phải rã .
Ngộ Không lắc đầu ý không
chịu học.
Tổ Sư bảo:
- Nếu không muốn học chữ
tịnh ta sẽ dạy chữ động cho.
Ngộ Không liền cúi đầu thưa:
- Thưa thầy, bất kể động,
tịnh, miển được trường sanh bất
tử tôi xin thọ giáo.
Tổ Sư nghiêm nét mặt nói:
- Phép ấy, uốn mình, bẻ xương,
luyện hơi thở, uống thuốc kim đơn
khỏi bệnh, được sống lâu muôn thuở. Mà
phép trường sanh đó chẳng khác nào trăng dưới
nước!
Ngộ Không vừa mừng vừa
ngại, hỏi:
- Ðó, thầy vẫn giấu mẹo hoài,
đệ tử biết đường nào theo!
Tổ Sư nói:
- Trăng trên trời rọi xuống nước,
tuy có bóng nhưng không có thật.
Ngộ Không ngước lên nhìn Tổ Sư
thưa:
- Vật như hư, đệ tử
theo học cũng hoài công vô ích!
Tổ Sư đập bàn hét lớn,
tay cầm thước bước xuống ghế, chỉ
vào mặt Ngộ Không nói:
- Khỉ đột, phép nào cũng chê,
mà còn đòi hỏi gì?
Dứt lời, gõ óc Ngộ không ba cái,
chắp tay sau đít quay vào phòng đóng cửa.
Các môn đệ đều thất kinh!
Kẻ oán Ngộ Không, người lo thầy giận.
Còn Ngộ Không chẳng hề sầu não,
lại cười giỡn tươi vui.
Vì Ngộ Không biết thầy ra
dấu: "Ðến canh ba lén vào cửa sau vô phòng
thầy truyền phép".
Ðêm hôm ấy, Ngộ Không nằm
giả ngủ, chờ mọi người ngon giấc, lén
dậy, ngồi nhìn ra cửa sổ. Bấy giờ mây
cuộn sao mờ, trăng tà sương đổ,
chốc chốc có tiếng gió thổi rì rào, như báo
hiệu một đêm đầy hy vọng.
Ngộ Không đợi đúng canh ba lén
vào ngõ sau, thấy cửa mở hé một cánh.
Bước vào phòng, Ngộ Không thấy thầy đang quay mặt vào vách ngủ liền quì sát bên giường không hề kinh động. Một lúc sau, Tổ Sư thức dậy duỗi chân ra ngâm mấy vần thơ:
Nhật nguyệt phôi pha nặng cõi trần
Nhàn lai vô sự kiếp tiên nhân
Linh đơn đạo thuật hầu chưa dễ
Chỉ dễ cho ai được hưởng phần
Lời thơ vừa dứt, Ngộ Không
cất tiếng thưa:
- Tôi đến chờ thầy từ lúc
gà giục gáy.
Tổ Sư nghe Ngộ Không nói, ngồi
dậy nạt lớn:
- Loài khỉ, giờ này chưa ngủ,
còn đến đây làm gì?
Ngộ Không cúi đầu cung kính thưa:
- Lúc ban ngày thầy có dạy tôi, vào
khoảng canh ba lén đến ngỏ sau thầy truyền
phép, nên tôi mới bạo dạn vào phòng giữa lúc
đêm khuya, xin thầy lượng thứ.
Tổ Sư nghe nói, thầm nghĩ:
- Thằng nầy quả là trời sanh,
không phải phàm tục, nên đoán được
mẹo ra dấu của ta.
Ngộ Không thấy Tổ Sư trầm
ngâm suy nghĩ, liền hỏi:
- Ở đây không có ai, xin thầy
truyền phép, tôi chẳng dám quên ơn.
Tổ Sư nói:
- Ta mến người có phúc, thương
kẻ thành tâm. Vả lại ngươi đã đoán ra
mẹo của ta, rõ là kẻ phi thường, ta sẳn lòng
truyền phép trường sanh bất tử cho.
Ngộ Không vui mừng, lạy tạ,
rồi quì bên giường nghe lời chỉ dạy .
Tổ Sư giảng những câu khó
hiểu, tưởng như Ngộ Không chậm biết.
Nhưng Ngộ Không vốn trời sinh
ra có khiếu thông minh sẳn. Vả lại, ở động
tiên lâu ngày đã am tường lời của Tổ Sư,
nên Ngộ Không nghe qua thì hiểu liền, bèn lạy
tạ lui ra nhà trước, ngồi lâm râm môt mình học
thuộc lòng. Từ đó cứ đêm đến
canh ba, ngày thì đứng bóng, Ngộ Không lén vào thọ
giáo tập luyện mãi được ba năm.
Một hôm, Tổ Sư đang giảng
kinh nói về việc báo ứng nhân quả, khái lược
đại cương, trực nhớ đến Ngộ Không,
liền hỏi:
- Ngộ Không đâu, có mặt đây
chăng?
Một tiếng dạ trong đám môn
đệ vang lên, Ngộ Không bước đến quì thưa:
- Tôi có đây, thầy cần điều
gì dạy bảo?
Tổ Sư nói:
- Bấy lâu luyện ngươi đã
luyện tập như thế nào?
Ngộ Không thưa:
- Mấy lời thầy dạy đệ
tử ngày đêm luyện tập không thiếu sót điều
chi.
Tổ Sư đưa mắt nhìn đám
môn đệ rồi quay lại nói:
- Tuy ngươi đã thông suốt
nguồn cơn, nhưng còn ba điều tai nạn đáng
lo!
Ngộ Không hồi hồi suy nghĩ.
Một lúc sau mới nói ra lời:
- Trong kinh dạy ai học được
phép tiên, sánh cùng trời đất, sống lâu muôn
thuở, tinh thần đầy đủ, không bao giờ
bệnh hoạn. Sao còn điều tai biến nào nữa,
xin thầy chỉ cho đệ tử biết.
Tổ Sư mỉm cười, nói:
- Ðạo tiên mênh mông rộng lớn! Ai
cướp máy tạo hoá, cải định mệnh
trời, quỉ thần không lượng thứ. Nay ngươi
vừa luyện đặng phép sống lâu nhưng khó
bề tránh khỏi! Thầy đã đoán biết năm
trăm năm về sau, ngươi sẽ bị trời
đánh. Nếu ngươi tránh khỏi thì năm trăm
năm nữa bị trời đốt. Lửa ấy không
phải của trời hay của người, mà do âm khí
xông lên, từ bàn chân ngươi ót thấu óc, ngũ
tạng đều cháy ra tro, rất uổng công tu
luyện! Ngươi có thần thông tránh qua được
tai hoạ ấy, thì cách năm trăm năm nữa,
trời cho gió thổi. Gió này độc dữ , không
phải gió của bốn phương, mà gió phát xuất
từ óc ngươi thổi ngược về quả
đất, đi qua lục-phủ ngũ tạng, lồng
vào cửu khiếu, làm cho thịt xương rời rã!
Vậy ngươi nhớ lấy lời này, tránh ba tai
nạn, kẻo bỏ mình!
Nghe nói Ngộ Không rởn ốc quì
xuống thưa:
- Trăm lạy thầy, mở lượng
từ bi thương người chân thật, truyền thêm
phép lạ, tránh ba điều tai nạn. Tôi nguyện
thọ ơn thầy trọn đời .
Tổ Sư cảm động nói:
- Ðiều đó tưởng chẳng khó
gì, chỉ sợ nhà ngươi không gia công luyện
tập.
Ngộ Không mừng rỡ vội
sụp lạy, thưa:
- Lâu nay lòng tôi mong ước luyện
được phép trường sinh bất tử dầu
khó khăn gian lao, quyết không sờn chí.
Tổ Sư nói:
- Ðạo tiên có ba mươi sáu phép thiên
cang, bảy mươi hai phép địa sát. Nhà ngươi
muốn luyện phép nào?
Ngộ Không thưa:
- Tôi xin gắng công học bảy mươi
hai phép địa sát để được rộng
bề tiện dụng.
Tổ Sư liền gọi Ngộ Không
đến gần tai nói nhỏ một hồi. Các môn
đệ ngơ ngác không hiểu nói gì, có kẻ nhìn
Ngộ Không như ganh ghét, có người muốn tò mò
nghe ngóng.
Ngộ Không đã sẳn thông phép trước
, nên nhớ ngay dễ dàng không một lời thiếu sót.
Từ đó Ngộ Không ngày đêm lo
luyện tập bảy mươi hai phép biến hóa
thần thông ...
Một chiều nắng êm, gió dịu. Vườn đào lá rung rào rạc, cánh bướm chập chờn với muốn hoa đua nở. Trước động, Tổ Sư ngồi xem học trò thi nhau luyện môn vật lộn. Ngộ Không ngứa nghề tung tăng chạy từ chỗ ngay qua chỗ khác ...
Tổ Sư thấy thế hỏi:
- Bảy mươi hai phép, nhà ngươi
luyện tập xong chưa, mà mãi lo nhảy nhót vậy?
Ngộ Không thưa:
- Nhờ ơn thầy truyền phép, tôi
luyện tập không sót môn nào, ngoài ra còn bay
được lên không trở về như chim én.
Nghe nói, Tổ Sư gọi lại
bảo:
- Hãy bay thử ta xem nào?
Ngộ Không co chân nhảy vọt lên không,
bay được hơn ba dậm, rồi quay về đáp
trước mặt Tổ Sư, và nói:
- Thưa thầy, đằng vân như
vậy đã đúng phép chưa?
Tổ Sư cười lớn nói:
- Lối bay của ngươi là vong vân,
chưa phải đằng vân. Phép đằng vân của
thần tiên "Sớm mai" ở biển Bắc,
chiều trở lại Thương Ngô. Mỗi ngày đi
khắp bốn biển.
Ngộ Không thưa:
- Theo lời thầy nói, thì phép đằng
vân khó lắm.
Tổ Sư nói:
- Trên đời không có việc gì là khó.
Chỉ khó ở lòng người không chịu cố công.
Ngộ Không hăm hở đến thưa:
- Lượng thầy đã mở,
chỉ còn chút phép đằng vân , xin thầy thương
tình chỉ dạy.
Tổ Sư bảo Ngộ Không đứng
dậy và nói:
- Phép đằng vân của thần tiên,
phải ngồi xếp bằng niệm chú bay
đi, khác với lối nhảy dựng của ngươi
khi nãy. Ta sẽ dạy cho phép Cân Ðẩu Vân bay nhanh hơn
tên bắn.
Ngộ Không đắc ý, tưởng như
mình đang ngồi tít trên mây xanh đôi mắt mơ màng
thích thú.
Tổ Sư ghé vào tai Ngộ không
truyền thần chú, và bảo:
- Hãy niệm chú cho mau!
Ngộ Không y lời niệm chú, hai tay
nắm chặt lại. Bỗng thân mình vụt bay lên, như
vũ bão, giây lát quay về tính hơn mười muôn
dặm.
Ðoạn thầy trò đem nhau về động. Ðêm ấy Ngộ Không tập luyện thông
thạo. Tổ Sư lòng mừng, được người
học trò phi phàm, tuyệt thế .
Từ đó, Tổ sư không còn hỏi han, hay nhắc nhở gì đến Ngộ Không nữa. Do đó Ngộ Không được tự do hiên ngang trời bể, sáng đến núi đào, chiều về tiên động.
Một hôm, các học trò cùng chơi dưới
cội tùng, thấy Ngộ Không xúm đến, vỗ vai
hỏi:
- Hiền hữu tốt phước quá
được thầy dạy bảy mươi hai phép
biến hoá, nay luyện tập đã tinh thông chưa?
Ngộ Không cười vuốt vai các
bạn nói:
- Tình bạn không giấu nhau làm gì.
Kể ra nhờ thầy chỉ dạy, tôi tập tành
gắng công, nên phép nào cũng được tinh xảo.
Các môn đệ rối rít bảo:
- Nay thì giờ nhàn rổi hiền
hữu thử ít phép coi chơi.
Ngộ Không vui vẻ đáp:
- Muốn thử phép chi các bạn cho
biết?
Các môn đệ lanh quanh bàn tán. Sau cùng
bảo Ngộ Không:
-Muốn xem hiền hữu biến ra cây
tùng được chăng?
Ngộ Không liền niệm chú lâm râm,
rùng mình một cái. Thốt nhiên hiện ra cây tòng, lá xanh
cành rậm.
Bọn môn đệ thấy phép lạ,
vỗ tay reo hò vang dậy.
Tiếng vang vọng đến tiên điện.
Tiên ông chống gậy bước ra hỏi:
- Chuyện chi reo hò như vậy?
Nghe Tổ Sư hỏi, Ngộ Không
thất kinh, hiện nguyên hình chạy vào nhập bọn.
Các môn đệ bước đến
cúi đầu thưa:
- Chúng con chơi nhau vui miệng reo cười,
mong thầy thứ lỗi .
Tổ Sư nghiêm nét mặt quở:
- Bay la ré vang rền, làm náo động
nơi tiên cảnh, sao gọi là tu hành .
Lũ môn đệ sợ sệt thưa:
- Chúng tôi không dám dấu thầy, vì
nghe Ngộ Không luyện được phép biến hoá
thần thông, nên khi nãy có bảo Ngộ Không hoá ra cây
tùng xem chơi. Ngộ Không chỉ niệm chú, rùng mình
một cái đã hoá ra cây tùng sừng sững, vươn
mình theo gió. Phép lạ khiến chúng tôi không nhịn cười
được.
Nói xong, cả bọn bước đến cúi đầu răm rắp lạy.
Tổ Sư nói:
- Thôi, chúng bay chờ đây.
Ðoạn gọi Ngộ Không tới
mắng:
- Sao nhà ngươi đã vội khoe
khoang, biến ra cây tùng cho chúng coi? Khi người ta
biết ngươi pháp thuật cao cường, đem lòng
ganh ty. đồ mưu ám hại thì còn gì!
Ngộ Không khiếp sợ, sụp
lạy thưa:
- Ðệ tử non lòng dại dột?
Mong thầy thương tình tha lỗi.
Tổ Sư nói:
- Ngươi là đứa khoe khoang, gàn
dở, ta không quở phạt làm gì, song ngươi
phải ra khỏi chốn này.
Ngộ Không nghe thầy nói, khóc tức
tửi thưa:
- Xin thầy mở lượng từ bi
dung thứ cho đệ tử được gần
thầy ngày đêm hầu hạ. Nếu thầy quyết
đuổi, đệ tử biết về đâu!
Tổ Sư lắc đầu nói:
- Thuở trước ngươi ở
đâu, nay về đó cho an phận.
Ngộ Không sực nhớ cảnh cũ,
nhưng không muộn về cứ đứng khóc lóc van
xin mãi:
- Sống nơi đây hơn mấy năm
trời, mến thầy nhớ bạn, lẻ nào nhất
đán thầy nỡ đuổi đệ tử về quê
để ôm lòng sầu cách biệt.
Ngươi đừng nói nữa vô ích,
đi cho kíp thì còn hồn , nán lại ta không dung thứ.
Ngộ Không biết thầy quá giận,
khó bề năn nỉ! Ðành phải cúi đầu bái
biệt và từ giã các bạn.
Ngộ Không vừa bước chân đi.
Tổ Sư kêu nói:
- Ngươi về xứ cũ ắt làm
việc chẳng lành, nhưng lành hay dữ tùy ngươi
đeo họa lấy. Ta chỉ cấm ngươi đừng
xưng là đệ tử của ta, nếu ngươi nói
nửa lời, sẽ bị thu hồi phép và hồn ngươi
bị bắt giam cầm nơi địa ngục.
Ngộ Không thưa:
- Lời thầy đã nghiêm cấm
đệ tử chẳng dám hở môi.
Sau khi bái biệt, Ngộ Không dùng phép Cân
Ðẩu Vân bay một giờ ra tới biển Ðông,
nhắm hướng núi Hoa Quả bay về .
Tuy bao năm trời cách biệt, động
Thủy Liêm vẫn còn tiếng chim kêu vượn hú, gió
ngàn vi vút như tự thuở nào.
Thấy bầy khỉ nhỏ ra vào nơi
cửa động, Ngộ Không đáp xuống gọi:
- Chúng bay! Chúng bay đâu! Ta đã
về đây.
Nghe kêu, bọn khỉ lớn nhỏ rùng
rùng chạy tới có hơn muôn ngàn con đứng vây
quanh Ngộ Không, ríu rít hỏi:
- Ðại-vương ơi! Ðại vương
có biết xa chúng tôi đã bao năm rồi chăng? Chúng
tôi ở nhà trông 'bè' Ðại vương như đói cơm,
khát nước!
Ngộ Không nói:
- Nhưng quê nhà ta vẫn bình yên
chứ?
Bọn khỉ nói :
- Ðộng ta vừa bị một con yêu
đến chiếm cứ, chúng tôi đánh không lại, nó
giết và bắt rất nhiều. Nếu Ðại vương
không về, xứ sở nhà ta sẽ về tay chúng
cả!
Ngộ Không nghe nói, lửa giận
phừng phừng nói:
- Con quái vật này ở đâu, cả
gan phá phách. Ta quyết phanh thây nó trả thù cho chúng bay.
Bầy khỉ nói:
- Nó đến xưng là Hỗn Thế
Ma Vương về hướng Bắc.
Ngộ Không hỏi:
- Từ đây đến đó bao xa?
Bầy khỉ thấy Ðại vương
mình hăm hở trả thù lòng mừng khấp khởi,
đáp:
- Nó nương mây đi tới, theo gió
trở về, chúng tôi không biết phương nào! Xin Ðại
vương chờ nơi động sẽ gặp nó.
Ngộ Không căm tức, dậm
mạnh chân xuống đất nói:
- Ta quyết tìm cho được nó,
giết quách đi mới yên tâm.
Vừa dứt lời, Ngộ Không dùng
phép Cân Ðẩu Vân bay qua phương Bắc.
Bay giây phút, nhìn thấy núi Khảm Nguyên
cao lớn, có tiếng người nói, liền đáp
xuống tìm kiếm.
Ngộ Không đi vòng qua núi, thấy
một động lớn, đề ba chữ "Thuỷ
Tang động" .
Trước sân động, mấy con yêu
nhỏ tung tăng nhảy múa.
Chúng vừa thấy Ngộ không, sợ
sệt bỏ chạy vào trong, đóng cửa.
Ngộ không kêu:
- Chúng bay hãy vào báo với Ma vương
biết, có ta là Chúa động Thủy Liêm đến
vấn tội.
Lũ tiểu yêu nghe nói thất kinh,
hối hả chạy vào báo:
- Tâu Ðại vương, họa đã
tới rồi! Họa đã tới rồi! Ngoài cửa
động một con khỉ đột to lớn, xưng là
Chúa động Thủy Liêm đến đây vấn
tội Ðại vương.
Hỗn Thế Ma vương vẫn điềm
nhiên cười nói:
- Ta từng nghe bày khỉ nói, Chúa nó
đi tu, có lẽ tiếc bần nên nay về đó. Bay
thấy nó có khí giới gì chăng? Và ăn mặc như
thế nào?
Tiểu yêu quì thưa:
- Con khỉ này đầu sói, mặc áo
đỏ hoe hoe, lưng thắt dây vàng, chân đi giày
đen, nửa in trần tục, nửa giống nhà tu,
đang diệu võ giương oai, nhưng không khí
giới, chỉ múa may không làm trò khỉ ngoài cửa.|
Hỗn Thế Ma vương nghe xong,
mặc giáp cầm siêu, dẫn tiểu yêu xông ra ngoài
cửa, hỏi lớn:
- Yêu hầu không biết danh ta sao, dám
cả gan đến đây chọc giận?
Nghe nói, Ngộ Không quay nhìn thấy Ma vương
mặt áo giáp sắt, đầu đội kim khôi, chân
mang hia đen, tay cầm siêu bạc, mình cao ba trượng,
lưng lớn mười vây, sức mạnh có thừa,
liền chỉ vào mặt Ma vương, hét:
- Loài quỉ sứ mắt to như chân
tượng, không thấy được ta sao?
Ma vương cười ha hả nói:
- Ngươi hình thù nhỏ bé, tuổi
tác ít oi, đến đây không mang khí giới, dám nói
chuyện chống trời, e cho đầu lìa khỏi
cổ.
Ngộ Không đỏ mặt, mắng:
- Quân khốn kiếp, ăn cướp
động Thủy Liêm, gây tang tóc chẳng lành. Nay
gặp ta không biết sửa mình chịu trói, còn buông
lời xấc láo! Ta quyết phanh thây mi ra muôn mảnh.
Nói xong nhảy phốc tới thoi vào
mặt Hỗn Thế Ma vương. Ma vương lách mình
tránh khỏi và nói:
- Hãy khoan ! Ta lớn mi nhỏ, ta dùng
đao, mi tay không, dù ta thắng cũng mang tiếng cười
chê để ta bỏ đao đánh cùng mi cho biết
sức.
Vừa dứt lời Ngộ không nhảy tới đánh đùa. Ma vương dình dang trở tay chậm chạp, bị Ngộ Không đánh tiếp mấy thoi, mặt mày sưng húp. Ma vương túng thế lấy siêu chém, Ngộ Không lách mình tránh khỏi, rồi bứt năm sợi lông bỏ vào miệng, niệm chú lâm râm, phun ra một cái biến thành vô số khỉ, vây phủ Hỗn Thế Ma vương. Con thì đeo cổ, con cắn tai, con níu chân, Ma vương khiếp đảm tinh thần, day trở không kịp, bị Ngộ Không giật siêu chém làm hai khúc.
Ðoạn kéo rốc vào động
giết hết bầy tiểu yêu rồi rùng mình thu lông
lại. Ngộ Không tìm các khỉ con bị Hỗn Thế
Ma vương bắt nhốt, đem ra ngoài, rồi nổi
lửa đốt động Thủy Tang cháy rụi.
Thấy động đã cháy, Ngộ Không quay bảo
mấy khỉ nhỏ:
- Chúng bây mau mau nhắm mắt, ta làm phép
đưa về động.
Bọn khỉ nhỏ đều nhắm mắt, Ngộ Không dùng phép Cân Ðẩu Vân, phát lên một trận gió bay đi ráo. Về tới núi Hoa Quả sa xuống, Ngộ Không bảo lũ khỉ nhỏ mở mắt ra xem. Bầy khỉ mở mắt ra, thấy núi Hoa Quả động Thủy Liêm, lòng hớn hở, dắt nhau vào. Bọn khỉ ở trong động chạy ra đón rước, bày tiệc thết đãi.
Vượn và khỉ đột hỏi
Ngộ Không:
- Ðại vương đánh với
Hỗn Thế Ma.Vương thắng phụ dường nào?
Ngộ Không thuật lại việc
chiến thắng vừa rồi. Tất cả khỉ trong
động đều vỗ tay khen và hỏi:
- Ðại vương tìm học phép tiên
nơi nào mà giỏi quá vậy?
Ngộ Không đem chuyện đường
xa ngàn dậm, tầm sư học đạo kể
lại cho bầy khỉ nghe.
Bầy khỉ reo lên nói:
- Ðại vương phước lớn
lắm và có chí mới thành quả như vậy!
Ngộ Không cười nói:
- Bây ơi, ta được thầy tiên
cho tên họ mới là vinh dự chớ!
Bầy khỉ nghe Ngộ Không nói có tên
họ, xúm nhau hỏi:
- Họ gì vậy, Ðại vương?
Ngộ không nói:
- Ta nay họ Tôn tên là Ngộ Không,
vậy từ nay các ngươi nghe ai nói đến Tôn
Ngộ Không là ta đó.
Bầy khỉ vỗ tay cười
ầm và nói:
- Ðại vương là Ðại Tôn, thì
chúng tôi cũng được gọi là Tiểu tôn.
Tiếng cười lại nổi lên, bên
ngoài gió rít rào rạt, nguồn vui trở lại với
động Thủy Liêm như dạo nào thuở trước.
Hồi 3
Thiên động ngàn non đều sợ phép
Diêm quang mười cửa thảy kiêng oai
Từ khi Hầu vương dẹp an Thủy Tang động, giết Ma vương lấy được cây đao lớn, cả ngày cầm coi, lại bảo bầy khỉ nhỏ lấy tre vạt nhọn, làm gươm giáo. Rồi hằng ngày dạy chúng võ nghệ, phân ra đội ngũ, hệt như binh lính của nhà vua.
Một hôm Tôn Ngộ Không ngồi than:
- Ở đời lắm kẻ ác tâm,
lắm người tham nhũng, không riêng gì Hổn
Thế Ma vương. Mà ở động ta toàn thanh tre
vạt nhọn, gậy gộc tầm vông, làm sao chống
nổi những cuộc chiến bất ngờ xảy
đến! Ta muốn tìm khí giới bằng sắt,
ngặt không biết nơi nào!
Mấy con khỉ nhỏ sợ sệt
ngồi ủ rũ. Chỉ có bốn con khỉ già dõng
dạc đến quì thưa:
- Ðại vương muốn tìm khí
giới, chúng tôi tưởng không khó gì! Phía Nam núi này cách
hai trăm dậm, có nước Ngọa Lai nhiều đồng
sắt, lại lắm thợ rèn. Ðại vương đến
đó mua đồng sắt, thuê thợ làm binh khí, đem
về luyện tập chúng tôi tinh thông võ nghệ, thì có
lo gì không chống nổi kẻ thù.
Ngộ Không nghe qua lòng hớn hở, liền niệm chú nổi gió bay qua hướng Nam.
Giậy phút Ngộ Không nhìn xuống
thấy chợ búa dẩy đầy lâu đài chất
ngất, thành trì to lớn. Bèn nghĩ thầm:
- Chắc trong thành này có nhiều kho binh
khí, ta nên tìm cách lấy một số tiện hơn.
Nghĩ thế, Ngộ Không quay lại hớp hơi bên hướng Tốn, thổi mạnh về hướng Nam.Tức thì gió thổi ầm ầm, cát bay đá chạy, sấm sét vang rền, khiến cho dân chúng thành Ngọa Lai kinh hồn hoảng vía, kẻ đóng cửa chỏi nhà, người tìm nơi ẩn núp.
Ngộ Không nhảy xưống mở
cửa kho, thấy binh khí qua nhiều và đủ cỡ,
lòng mừng rỡ nghĩ thầm:
- Chỉ mình ta thì lấy được
bao nhiêu cái! Phải dùng phép thần thông mới được.
Liền nhổ nắm lông, niệm chú
phun ra biến thành vô số khỉ.
Chúng vào kho vác hết đồ binh khí.
Ðoạn Ngô Không bay bổng lên trời, đọc
thần chú lâm râm thu hết bầy khỉ đem về
động. Bây giờ đồ vũ khí chất
chồng la liệt trước cửa Thủy Liêm.
Ngộ Không dõng dạc kêu lên:
- Chúng bay ra đây lãnh binh khí.
Bầy khỉ nhảy ra, con thì dành gươm, con dựt búa, con lấy giáo, con mang cung. Hơn bốn ngàn, con nào cũng có vũ khí, nhảy múa tung tăng xem chừng đắc ý lắm.
Từ đó, Ngộ Không luyện binh,
tập võ, diễn hành các vùng lân cận, oai thế
lẫy lừng, chúa yêu, vua thú thẩy khiếp sợ, kéo
nhau đến hàng phục cả thảy mươi hai
động, tôn Hầu vương làm chúa, thường năm
cống lễ.
Núi Hoa Quả lúc này đồn lũy
đắp ngăn, quân binh rèn tập, rộn rịp muôn
phần, hệt như một thế giới văn minh
trong thời đó vậy.
Một sáng sớm, Ngộ Không thức
dậy điểm tâm xong leo ngồi trên bệ, gọi
bọn khỉ đột đến hỏi:
- Nay chúng bay thao lược gồm đủ,
võ nghệ tạm thông, nhưng còn cây siêu đao của
ta nhẹ lắm, cầm chẳng xứng tay, biết tìm
đâu ra thứ tốt .
Bốn khỉ đột thưa:
- Ðại vương là thần tiên dùng
đồ phàm tục e khó xứng. Song chưa biết Ðại
vương xuống nước được chăng?
Ngộ Không nói:
- Ta đắc đạo tiên ông,
thần thông biến hóa, thăng thiên độn thổ, vào
lửa không biết nóng, xuống nước chẳng
ngạt hơi, thì đi đâu không được.
Bốn khỉ đột tâu:
- Ðại vương thần thông
diệu pháp, lo chi không tìm được vũ khí
xứng đáng! Dưới cầu sắt này, thông
với Ðông Hải Long cung, Ðại vương xuống
đó, thẳng đến Long vương xin vũ khí
ắt người thuận ý.
Nghe qua, Ngộ Không cả mừng nói:
- Tốt lắm! Ta đi thử xem sao.
Nói xong Ngộ Không nhảy ra cầu
sắt niệm chú thủy độn, biến mình lặn
theo giòng nước, thẳng đến đáy biển,
gặp lũ Dạ xoa tuần biển cản lại
hỏi:
- Ông ở đâu bôn ba qua đường
này? Nên nói thật, để chúng tôi về phi báo
với Long vương nghênh tiếp.
Ngộ Không đáp:
- Ta là Ngộ Không vốn con trời
sanh, có quen biết với Long vương, nay đến
viếng thăm.
Lũ Dạ xoa về tâu lại, Long vương
Ngao Quảng vội vã ra nghênh tiếp và nói:
- Thỉnh thượng tiên vào Long đình
đàm đạo.
Ngộ Không theo Long vương vào cung
điện, trà nước hồi lâu Ngao Quảng hỏi:
- Chẳng hay thượng tiên tầm sư
học đạo lúc nào?
Ngộ Không nói:
- Ta đi tu từ thuở nhỏ, đã
học được phép trường sanh. Nay Ta luyện
tập binh sĩ, bảo toàn sơn động, ngặt vũ
khí không xứng tay. Nghe nói quí cung nhiều bửu bối,
nên đến xin một món cầm tay.
Ngao Quảng liền truyền quân đem
ra một đại đao.
Ngộ Không lắc đầu nói:
- Ta không thích đánh đao, phiền Vương
cung cho đổi thứ khác!
Ngao Quảng cho khiêng chĩa ba đến.
Ngộ Không cầm múa tít một hồi, rồi để
xuống cười, nói:
- Bửu bối này nhẹ lắm,
cầm chưa xứng tay, cho đổi thứ nào nặng
nhất.
Ngao Quảng nói:
- Vì thượng tiên nóng nảy, chưa
xem kỷ . Chĩa ba nầy có đề nơi cán mấy
chữ "nặng ba ngàn sáu trăm cân". Như
thế đã nặng lắm rồi.
Ngộ Không đáp:
- Dẫu mấy trăm cân mà ta cầm còn
nhẹ tay, chưa vừa ý.
Ngao Quảng không dám nói thêm, liền
truyền khiêng cây Phương Thiên Họa Kích nặng
tới bẩy ngàn hai trăm cân.
Ngộ không lấy múa sơ vài
hiệp, rồi cắm ngay giữa sân chầu mà nói:
- Còn nhẹ lắm chưa dùng được!
Ngao Quảng thất kinh nói:
- Trong cung tôi chỉ có cây kích đó
nặng hơn cả, xin thượng tiên dùng tạm.
Ngộ Không nói:
- Nơi Long vương có nhiều
bửu bối, tiếng đồn khắp bốn phương.
Vậy quí vương cho người khiêng ra, dù đắt
giá mấy, tôi cũng xin trả.
Ngao Quảng nói:
- Nơi Long cung này không còn vật nào
nặng hơn Phương Thiên Họa Kích. Thật tình
vậy, mong thượng tiên xét cho.
Nói xong, Ngao Quảng quay vào trong. Long bà và
Long nữ tâu rằng:
- Tôi coi ông thánh ấy có sức
mạnh phi thường, nơi Long cung không còn loại vũ
khí nào nặng hơn nữa, chỉ còn sắt thần
trấn nơi đáy biển nặng trên trăm ngàn cân,
mấy bửa nay lại có hào quang chiếu sáng hay là
số nó về tay ông thánh đó chăng?
Ngao Quảng nói:
- Sắt đó từ thuở vua Ðại
Võ đi trị thủy dùng làm trái đo để
biết nơi sâu cạn, sau khi đo xong, bỏ nơi
đáy biển cho bớt sóng. Sắt to quá sức, thánh
thần nào dùng được.
Long bà nói:
- Dùng được hay không miễn ông
ta thuận nhận đi ra khỏi cung này cho im chuyện.
Ngao Quảng nghe lời, ra thuật
lại với Tôn Ngộ Không.
Ngộ Không đắc ý nói:
- Vậy thì đem ra cho ta xem.
Ngao Quảng mỉm cười lắc
đầu, nói :
- Chao ôi! Cây sắt nặng mấy muôn
người khiêng không nổi mà bảo đem ra sao
được! Xin mời thượng tiên đến
đó xem mới biết.
Ngộ Không vừa cười, vừa nói:
- Nhân vật thủy cung sao mà yếu
đuối vậy? Thôi cứ dẫn ta đến đó
thử xem.
Ngao Quảng đưa Ngộ Không đến
giữa rún biển, lấy tay chỉ nơi hào quang
chiếu sáng, nói:
- Vật báu, hiện hào quang chiếu lên
đó, mời thượng tiên đến xem.
Ngộ Không bước đến, xăn
tay áo cầm lắc mấy cái rồi nhìn kỹ là cây
cột sắt lớn cả ôm, dài hơn hai trượng.
Ngộ Không nhìn trụ sắt nói:
- Cây nầy lớn và dài quá! Phải
chi ngắn đi một ít thì dễ nhổ!
Vừa
dứt lời, cột ấy thun lại mấy thước. Ngộ không vừa lạ lùng vừa thích
thú nói tiếp:
- Còn phải nhỏ đi một ít
mới được.
Tức thì bề tròn cây sắt nhỏ
theo.
Ngộ Không hí hửng lắc mấy cái,
nhổ lên, thấy toàn bằng sắt, hai đầu
bịt vàng, chính giữa có khắc mấy chữ "Như
ý kim cô bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngũ bá
cân".
Ngộ Không mừng rỡ nghĩ
thầm:
- Theo lời đã khắc thì thiết
bảng nay ta muốn sao được vậy. Tốt
lắm!
Nghĩ thế Ngộ Không vừa đi
vừa ước: nó nhỏ lại một ít nữa
mới vừa cầm tay.
Vừa dứt lời, cây thiết
bảng chỉ con bằng một trượng hai thước,
mình tròn còn bằng thước, Tôn Ngộ Không cầm
vừa tay, bèn múa một hồi, lượn bay trong nước,
hệt như con rồng uốn mình, lướt sóng qua
Long cung vậy.
Vừa múa Ngộ Không vừa lướt
thẳng về Thủy Tinh cung, khiến cho triều
thần Long vương, lớn nhỏ đều khâm
phục.
Ngộ Không cầm thiết bảng
đến ngồi hiên ngang trước mặt Ngao
Quảng nói:
- Tôi mang ơn hiền lân quá nhiều!
Nhưng có thiết bảng cầm tay, phải có y giáp
mới dễ coi. Vậy hiền lân giúp luôn cho vuông tròn
ơn nghĩa.
Ngao Quảng ngẫm nghĩ rồi nói:
- Ở Long cung giáp mới không có,
biết lấy gì giúp cho. Mong thượng tiên lượng
tình miễn trách.
Ngộ không gắt giọng nói:
- Không lẻ để ta tìm xin nơi khác,
phải chịu ơn hai chủ! Nếu hiền lân không
giúp được, Ngộ Không này quyết chẳng ra
khỏi Long cung.
Lời nói cứng rắn khiến Ngao
Quảng sợ sệt năn nỉ:
- Thật ra chẳng có y giáp, chẳng
phải tôi hẹp dạ, thượng tiên xét tình nghĩ
cho!
Ngộ không nói:
- Dù sao cũng phải kiếm cho tôi
một bộ, đừng để nói nhiều, sinh
việc không hay.
Ngao Quảng một mạch từ
chối, nói:
- Không có đồ mới, xứng đáng
với thượng tiện, tôi biết tìm sao đặng
bây giờ!
Ngộ Không dộng thiết bảng, nói
lớn:
- Nếu không có ta đập một
thiết bảng xem nào.
Ngao Quảng hoảng hốt nói:
- Khoan tay! Khoan tay! Ðể tôi hỏi
lại liệt đệ xem sao, nếu có xin đem dâng
lập tức!
Ngộ Không hỏi:
- Liệt đệ ở đâu?
Ngao Quảng thưa:
- Ba anh em tôi là Nam Hải Long vương
Ngao Khâm; Bắc Hải Long vương Ngao Thuận;
Tây Hải Long vương Ngao Thân.
Ngộ Không nói:
- Ta khồng hề đi đâu xa
nữa, lời tục có nói: Làm ơn cho trót, để
người trả ơn. Hơn nữa tánh ta
chẳng muốn lân la cùng bốn biển! Vậy
hiền lân giúp luôn, đừng lựa lời từ
chối.
Ngao Quảng nói:
- Tôi không dám bảo thượng tiên
đi nhiều chổ . Ở đây sẵn có trống
sắt chuông vàng, nếu có việc còn gióng trống,
giọng chuông thì các Vương đệ về đây
lập tức.
Ngộ Không nói:
- Thế thì hay lắm. Hãy cho người
đánh trống, giọng chuông đi!
Tức thì Ngao Quảng truyền lệnh gióng trống, giọng chuông. Giây phút quả có ba vị Long vương về đến, còn chờ lệnh ngoài ngọ môn.
Ngao Quảng ra đón tiếp. Ngao Khâm nóng
tính hỏi:
- Chẳng hay Vương huynh có điều
chi dạy bảo?
Ngao Quảng nói:
- Hiền đệ đừng nói
lớn, họ nghe được khó lòng. Trong cung có ông thánh
trời sinh, ở núi Hoa Quả sơn làm quen hỏi xin
đồ binh khí . Ta đưa món nào cũng chê nhẹ, túng
cùng phải chỉ cây Thần Trân Thiết nơi đáy
biển, hắn lấy lên thu gọn lại làm
thiết bảng cầm tay. Lại đòi ta giúp y giáp,
thực tình nơi Long cung này không có, nên ta mời các em
về thương nghị! Vậy ai có y giáp đem
tống nó đi cho rảnh.
Ngao Khâm nổi giận nói:
- Nó chỉ trơ trọi một mình, ta
đủ bốn anh em, còn có cả muôn ngàn binh tướng,
sao không bắt nó hành hình, để chi cho gai mắt.
Ngao Quảng khoát tay nói:
- Thôi, thôi! Hiền đệ đừng
nóng tính, nó có phép thần thông biến hóa, còn thiết
bảng này đánh xuống thành cung hư, lũy cũng nát,
đừng nói chuyện đến thịt xương.
Ngao Thuận nói:
- Theo lời của Vương huynh,
hiền đệ tưởng nhị ca cũng không nên gây
chuyện. Tốt hơn, chúng ta chung đồ tống nó
đi, rồi làm biểu dâng lên thiên đình, xin Ngọc
Hoàng trừng trị. Tôi có đôi hia vừa đi may
về xin thí cho nó đây.
Ngao Thân nói:
- Tôi sẵn mặc bộ giáp vàng này, cũng
xin cởi ra thí cho nó, để nó đi cho rảnh.
Ngao Khâm nói:
- Bộ mão chuồn cánh phụng
của tôi đây, xin cũng bỏ ra không tiếc gì.
Ngao Quảng vui mừng nói:
- Vậy bốn anh em ta cùng đem vào
bố thí.
Ðoạn ba anh em đồng cởi đồ
đem vào ra mắt Ngộ Không, và nói:
- Chúng tôi là ba vị Long vương xin
dâng nạp giáp y cho thượng tiên.
Ngộ Không xem qua đẹp ý, liền
đội mão, mang hia, mặc giáp, nai nịt xong, cầm
thiết bảng vừa đi vừa múa và nói:
- Tôi làm phiền các ông nhiều quá! Thôi xin từ giã nhé!
Dứt lời, vụt bay về hướng
núi Hoa Quả.
Bốn Long vương căm tức hợp nhau làm biểu dâng lên Ngọc Hoàng, xin vấn tội Ngộ Không, và hỏi rõ căn cội vị thượng tiên ấy.
Bấy giờ nơi cầu sắt, bầy
khỉ chờ đợi Ngộ Không, con thì đứng môi
cầu con thì dòm xuống nước, Ngộ Không vừa
về đến, chúng hối hả bâu quanh, hỏi:
- Ðại vương ăn mặc oai nghiêm,
rất xứng đáng một vị chúa tể nơi
động này.
Ngộ Không đắc ý để
thiết bảng xuống nhảy phóc lên cao ngồi.
Bầy khỉ thấy thiết bảng xúm
nhau ôm lắc nhưng không nhúc nhích.
Chúng reo lên:
- Cha chả là nặng! Nặng như núi
đá mà Ðại vương cầm nhẹ như vông,
thật sức mạnh phi thường, khó có người
bì kịp.
Ngộ Không hỏi:
- Vật quí tìm chủ quí ! Mấy
ngàn năm bửu bối nằm đáy biển, Long vương
không biết dùng nên mới cho ta. Bửu bối có hào
quang chiếu sáng dài hơn hai trượng, lớn trót
một ôm. Ta chê dài và lớn, nó liền thu ngắn và
nhỏ, chính giữa có hàng chữ "Như ý kim cô
bảng, trọng nhứt vạn tam thiên ngủ bá cân".
Chúng bay dang ra, ta bảo nó biến hóa cho xem.
Bọn khỉ vừa lui ra, Ngộ Không
liền nói:
- Nhỏ, nhỏ, hết sức nhỏ.
Tức thì thiết bảng chuyển mình
thun lại còn bằng cây kim. Ngộ Không lấy
dắt vào mép tai.
Bầy khỉ kinh ngạc nói:
- Ðại vương còn gì hay hơn, xin
làm phép nữa xem chơi.
Tôn Ngộ Không móc kim ra để lên bàn
tay nói:
- Lớn! Lớn, hãy lớn lên!
Kim bung ra lớn dài như trước.
Bầy khỉ vổ tay reo lên lần
nữa. Ngộ Không thích ý, nhảy ra sân động,
chống thiết bảng, niệm thần chú, hóa mình cao
lớn, đứng chững chạc bảo:
- Cao, cao, cao lên nữa. Tức thì mình
cao muôn trượng, đầu to như núi, răng hé như
gươm, mắt lòa như chớp; thiết bảng cũng
cao vút mây xanh, hào quang chiếu rực trời.
Bảy mươi hai động yêu,
thấy hào quang chiếu sáng tìm đến xem, thảy
đều khiếp sợ, cúi đầu khâm phục.
Giây phút, Ngộ Không niệm chú thu
lại nguyên hình, rồi vào động ngồi.
Bảy mươi hai Yêu vương
đến quì ra mắt.
Ngộ Không tỏ ý khoe khoang truyền
khua chuông, đánh trống diễn binh, gươm giáo
tuốt trần, cờ bay rợp đất.
Ngộ Không ngồi trên bệ, y
phục chỉnh tề truyền phong quan chức như sau:
Bốn khỉ già làm tứ kiện tướng.
Hai khỉ ngựa to đuôi làm Mã lưu nhị nguyên soái.
Hai con vượn cân vá làm Bảng bá nhị tướng
quân . Binh quyền giao cho Tứ kiện tướng quân
thống quản.
Từ đó, Ngộ Không xưng là Mỹ
Hầu vương thường ngày đằng vân giá
vũ, đi khắp nơi, cùng chơi thân với sáu
vị Ma vương sau đây, sớm tối luận bàn
thế sự :
l) Ngưu ma vương
2) Giao ma vương
3) Bàng ma vương
4) Sư đà vương
5) Nhĩ hầu vương
6) Ngô nhung Vương.
Một đêm trăng thanh gió mát, Ngộ Không bày tiệc thết đãi các Ma vương. Ăn uống suốt đến canh khuya, tiệc mới tàn. Sáu Ma vương giã từ về động, Ngộ Không men nồng say ngủ; nằm ngáy vo vo như sấm dậy. Tứ kiện tướng dàn binh hầu hạ.
Trong giấc nồng, Ngộ Không chiêm
bao thấy hai người: một người cầm vòng,
một người nắm giây, có đề ba chữ "Tôn
Ngộ Không", và hối hả tròng vòng vào cổ,
dắt Tôn Ngộ Không đi. Ðến một nơi cung
điện nguy nga, hồn Ngộ Không ngó lên thấy
bảng đề ba chữ: "U Minh Giái",
thất kinh lẩm bẩm:
- Nơi đây là âm-phủ, sao dắt
ta đến đây làm gì?
Hai Kẻ kia nói:
- Nhà ngươi tới số phải
trở về Diêm chúa, nên hai ta là quỉ vô thường,
vâng chỉ đến bắt ngươi đây.
Tôn Ngộ Không nói:
- Ta không thuộc ngũ hành, vượt
ngoại vòng tam giái, thập điện vô phép bắt ta,
hãy coi chừng cung này tan vỡ.
Hai quỉ vô thường không đáp,
dắt Ngộ Không đi mãi. Ngộ không nổi giận,
móc kim ở lổ tai ra, niệm chú lớn thành thiết
bảng, đập chết hai quỉ vô thường,
rồi xông vào đập phá cung thành.
Ngưu Ðầu khiếp vía, Mã Diện
kinh hồn, mạnh ai nấy chạy.
Bọn quỉ sứ vội chạy
tới thập điện phi báo:
- Có thiên lôi giáng hạ phá đền
đài, đập chết quỉ vô thường rồi!
Thập Ðiện đang ngồi thương
nghị, nghe tin chẳng lành, liền kéo ra xem, thấy
Ngộ Không hung hãn dữ tợn, bèn kêu lớn:
- Xin thượng tiên cho biết tên
họ trước khi phá điện này.
Tôn Ngộ Không nói:
- Chúng bây biết là thượng tiên
sao còn vô lễ, cho ngươi đến bắt. Ta là thánh
trời sanh, tên là Tôn Ngộ Không ở núi Hoa Quả,
động Thủy Liêm. Còn chúng bay tên chi? Mau xưng lên
kẻo tan hồn.
Thập điện đồng xá, và nói:
- Chúng tôi là Nhứt điện Tần
quảng vương, Nhị điện Sở giang-vương,
Tam điện Tống đế vương, Tứ điện
Ngũ quang vương, Ngũ điện Diêm la vương,
Lục điện Bình đẳng vương, Thất
điện Thái sơn vương, Bát điện Ðồ
nhị vương, Cửu điện Biện thành Vương,
Thập điện Chuyển luân vương.
Tôn Ngộ Không nói:
- Các ngươi là vương vị,
sao không hiểu lẽ trời, làm điều trái phép, ta
là thần tiên ngoài tam giái, vượt khỏi ngũ hành,
sao các ngươi còn sai quỉ đến bắt?
Thập điện nói:
- Mong thượng tiên bớt giận, vì
thiên hạ lắm kẻ trùng tên, nhiều người
giống tuổi, nên vô thường lầm lỡ, thượng
tiên nghĩ tình lượng thứ!
Tôn Ngộ Không nói:
- Còn nói trớ trêu, ta đập
một thiết bảng tan hồn. Hãy lấy bộ sinh
tử ra đây ta xem sao?
Thập điện sợ sệt thưa:
- Xin thượng tiên quá bước, lên
điện này xem sổ.
Tôn Ngộ Không cầm thiết bảng
nhảy phóc lên Sum la điện. Phán Quan sợ sệt
lật đật dâng sổ bộ.
Ngộ Không lật ra tra các bộ
Vỏ trùng, Mao trùng, Lân trùng, Giáp trùng, mãi tới Côn trùng
là cào, chấu, bướm, ong, cũng không thấy tên mình.
Tra tới loài Viên hầu: vượn, khỉ. Ðến
chữ hầu, số một nghìn ba trăm năm mươi
hiệu, dưới có hàng chữ: "Tôn
Ngộ Không mãi thị thiên sản thạch hầu, cai
thọ tam bá thập nhị tuế thiên chung"
Xem mấy hàng chữ, Tôn Ngộ Không căm
tức, liền lấy viết chấm mực gạt bôi
lia lịa và nói:
- Ta chẳng cần sống mấy trăm
năm đó.
Ðã bôi tên mình còn bôi luôn cho các vượn,
khỉ kia nữa.
Ðoạn, quăng viết ném sổ và nói:
- Từ nay các ngươi đừng
nhắc đến tên ta nữa đó!
Dứt lời huơi thiết bảng phóng
mình ra khỏi điện Sum la, trở về dương
thế.
Thập điện vương ai nấy đều lo sợ họp nhau qua cung Túy Vân bàn với Ðịa Tạng vương Bồ tát làm sớ dâng biểu cáo với thiên đình.
Tôn Ngộ Không về đến dương trần, thấy vấp chân giật mình thức dậy mới hay là chiêm bao!
Thấy Ngộ Không đã tỉnh rượu,
tứ kiện tướng hỏi:
- Ðại vương quá chén say lắm
sao, mà ngủ đến một ngày một đêm vậy?
Ngộ Không kể lại việc đến
Sum la điện, phá, bôi sổ vừa rồi, và cười
lớn nói:
- Thế là từ nay chúng ta chẳng còn
sợ chết, và khỏi lo Diêm vương sai đi
bắt nữa.
Bầy khỉ nghe nói mừng rỡ kéo
nhau đến lạy tạ ơn. Từ đó về sau
loài khỉ sống chết không có số mạng nữa.
Ngày kia, Ngọc Hoàng đang ngự nơi
Linh Tiêu điện, chư thần, chư tiên chầu
đủ mặt.
Bỗng thấy Thần hoằng tế
chơn chơn tâu:
- Có Ðông Hải Long vương Ngao
Quảng đến dâng biểu, còn đứng ngoài
chờ1ệnh.
Ngọc Hoàng truyền cho vào.
Ngao Quảng bước đến quì
lạy dâng sớ.
Tiên đồng tiếp sớ dâng lên,
Ngọc Hoàng mở ra xem.
Văn biểu viết như sau:
" Thủy nguơn hạ giái ở
Ðông Thắng Thần Châu, Ðông Hải tiểu Long vương,
Ngao Quảng cúi dâng:
Yêu tên Tôn Ngộ Không ở động Thủy Liêm núi
Hoa Quả đến hiên ngang nơi thủy giái, khi dễ
Thủy long, tước đoạt thần trân làm vũ
khí cầm tay, sau áp bức đòi cho được y quan,
y giáp.
Thật là hành động ngang tàng, xin Ngọc Hoàng thu
về thượng giới để tránh tai họa
về sau.
Kính dâng"
Ngọc Hoàng xem sớ xong, liền phán:
- Thôi, Long thần yên tâm về cõi,
để ta sai tướng xuống bắt Tôn Ngộ Không
về vấn tội.
Ngao Quảng tạ ơn, bái biệt
trở về thủy giới.
Phút chốc lại có Ðạo Ðồng
Tiên ông vào tâu:
- Có Tần Quảng vương thừa
lệnh U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương đến
dâng biểu.
Ngọc nữ vội tâu sớ dâng lên.
Ngọc Hoàng cầm chương biểu
xem:
"U Minh giáo chủ Ðịa Tạng vương
kính dâng:
Thiết nghĩ: Trời có thần, đất có quỉ,
âm dương thay đổi, sống thác có mạng, muôn
vật đều chịu kiếp luân hồi, không có
vật gì trường tồn mãi mãi ... Ðó là đạo
lý.
Nay tại núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, trời sanh khỉ đá thọ khí âm dương ba trăm năm rồi, tên là Ngộ Không, tài phép phi thường, hiên ngang quá lẽ. Vừa rồi Ngộ Không xuống Sum la điện giết quỉ vô thường, mắng vua Thập điện, lại xóa bôi sổ bộ Viên hầu, làm tuyệt đường sinh tử .
Thần kính dâng sớ nầy xin Ngọc Hoàng nhậm ngôn sai thiên binh xuống bắt Ngộ Không trị tội, thì chốn âm phủ mới khỏi mang họa".
Ngọc Hoàng xem xong liền phán:
- Thôi, Tần Quảng vương lui
về âm phủ, ta sẽ khiến tướng bắt
Ngộ Không.
Trần Quảng vương vui mừng
lạy tạ, lui ra .
Tiếp đó, Ngọc Hoàng phán hỏi:
- Thạch hầu sanh bao lâu, học
được phép tiên nơi nào, mà tài giỏi như
vậy?
Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ tâu:
- Cách chừng ba trăm năm chục năm
nay, núi Hoa Quả có khối cẩm đá do khí âm dương
nhật nguyệt kết tựu, sanh ra khỉ đá. Còn
việc học phép thần thông chúng tôi chưa được
rõ.
Ngọc Hoàng phán:
- Yêu hầu sanh chuyện, làm kinh động
hạ giới, phải bắt về trừng trị.
Vậy thần tướng đủ sức lãnh chiếu
thu hồi Tôn Ngộ Không về trừng trị chăng?
Thái Bạch Kim Tinh quì tâu:
- Thạch hầu là giống trời
sanh, tu đã lâu năm thần thông biến hóa. Hạ
thần thiết tưởng khó nổi thu hồi, chi
bằng đòi về phong chức, lưu giữ tại thiên
cung, nếu nó có hung hăng dễ bề trị tội.
Xin Ngọc Hoàng lấy lượng khoan hồng, giáo
dục vật linh dày công tu luyện.
Ngọc Hoàng ngẫm nghĩ một lúc,
rồi gật đầu khen phải, truyền cho Văn Khúc
Tinh Quân tả chiếu, giao cho Thái Bạch Kim Tinh hạ
giới chiêu an.
Thái Bạch Kim Tinh lãnh mệnh thẳng
đến động Thủy Liêm.
Ðến nơi Thái Bạch Kim Tinh gọi
bầy khỉ nhỏ đến nói:
- Ta là Thiên sứ, lãnh chiếu Ngọc
Hoàng, đến đây mời Ðại vương các ngươi
lên trời lãnh chức. Mau vào báo gấp cho Ðại vương
các ngươi ra hầu thiên chỉ.
Lũ tiểu hầu vội vã chạy vào
báo. Tôn Ngộ Không mừng rỡ cười lớn, nói:
- May lắm! Ta có ý định lên
trời chơi, nhưng chưa kịp đi, lại có thiên
sứ đến rước.
Liền sửa soạn áo mão ra nghinh
tiếp.
Thái Bạch Kim Tinh vào động. Ðứng
giữa truyền thiên chỉ.
Tôn Ngộ Không chẳng hề lạy
tạ, đứng cười ha hả:
- Ông phụng chỉ đến đây,
đã dày công khó nhọc. Vậy ta cho lũ nó đãi
tiệc nhé!
Thái Bạch nói:
- Ta dâng thiên chỉ không dám trễ lâu.
Hầu vương mau theo ta về trời gấp.
Tôn Ngộ Không quay lại dặn
bọn khỉ:
- Tứ kiện tướng hãy ở
đây chăm sóc việc quân binh, bảo toàn Thủ động.
Ta về trời thăm dò đàng sá nếu tiện
sẽ dẫn bay lên đó chơi cho biết.
Tứ kiện tướng vâng lời.
Tôn Ngộ Không đằng vân theo Thái Bạch.
Hồi 4
Chức phong Bật Mã lòng chưa
muốn
Hiệu gọi Tề Thiên dạ mới đành
Tôn Ngộ Không dùng phép cân đẩu vân
bay nhanh hơn gió.
Thái Bạch đuổi theo nhưng không kịp!
Ngộ Không bay trước tới
cửa Nam Thiên, muốn xông vào, bỗng có Tăng trưởng
Thiên vương cùng tám vị Thiên Quân là: Ban Thiên Quân, Lưu
Thiên Quân, Trương Thiên Quân, Ðào Thiên Quân, Tuân Thiên Quân,
Ðặng Thiên Quân, Tân Thiên Quân và Tất Thiên Quân, dàn thiên
binh đón lại.
Tôn Ngộ Không tức giận nói lớn:
- Lão Kim Tinh xảo trá! Gạt lão tôn lên đây cho người
ngăn cản!
Vừa dứt lời, Thái Bạch Kim Tinh vừa tới.
Tôn Ngộ không nổi giận nói:
- Lão tặc dám gạt ta sao? Ngươi
nói Thượng Ðế chiêu an, thỉnh ta lên lãnh
chức, sao còn có kẻ ngăn đường chận ngõ?
Thái Bạch Kim Tinh cười, nói:
- Hầu vương bớt giận, lão không phải người
lừa gạt! Vì Hầu vương chưa từng đến
Thiên Ðình, nên Thiên tướng chưa quen mặt, không dám
cho vào. Khi Hầu vương đã lãnh chức, ra vào
sẽ không còn ai cản nữa.
Tôn Ngộ Không nói:
- Nếu vậy ta không muốn vào làm gì.
Thái Bạch Kim Tinh liền nắm tay Ngộ Không nói:
- Xin Hầu vương nguôi giận
đi vào, kẻo Ngọc Hoàng chờ đợi.
Ðoạn gọi lớn:
- Mở cửa cho mau, ta vừng chiếu chỉ chiêu an,
với tiên trung giới về đây.
Tiếng kêu vừa dứt, cánh cửa
mở tung ra. Thái Bạch Kim Tinh dẫn Tôn Ngộ Không qua
khỏi Nam thiên môn, thẳng đến điện Linh Tiêu.
Ðến nơi, Tôn Ngộ Không không quì, chỉ đứng
lóng tai nghe!
Thái Bạch Kim Tinh quì lạy Ngọc Hoàng,
tâu:
- Hạ thần vâng thánh chỉ, đã đòi yêu tiên
về đó, xin trình cùng Thượng Ðế.
Ngọc Hoàng phán hỏi:
- Yêu tiên là ai? Cớ sao chưa ra mắt?
Tôn Ngộ Không bước đến vái và nói:
- Lão Tôn có đây, cần ta việc gì?
Các vị thần tiên đều sửng sốt thì
thầm:
- Con Khỉ rừng thật là vô lễ! Ðến không quì
lạy, tung hô, còn xưng ta, xưng lão!
Ngọc Hoàng phán:
- Ngộ Không vốn là yêu tiên sống nơi hoang, dã chưa
từng biết lễ nghi, trẫm cũng rộng dung,
chẳng hề cố chấp.
Chư tiên thấy vậy bảo Ngộ Không:
- Thượng Ðế khoan dung, sao không đến lạy
tạ ơn?
Ngộ Không bước lên bái rồi lui ra không chịu
lạy.
Tuy nhiên, Ngọc Hoàng không hề giận, ngồi mỉm cười
và phán:
- Trong hàng văn võ còn khuyết chức nào, dùng Ngộ Không
vào làm chức đó?
Võ Khúc Tinh Quân tâu:
- Muôn tâu Thượng Ðế, chức tước hiện nay đều đủ cả, chỉ còn khuyết
chức Bật Mã Ôn là Chánh Ngự Mã Giám, không
biết Ngộ Không có vừa lòng chăng?
- Vậy bổ Ngộ Không vào làm chức ấy.
Chư tiên bảo Ngộ Không tạ ơn.
Ngộ Không cũng chỉ bước
đến bái như lần trước.
Ngọc Hoàng bảo Mộ Ðức Tinh Quân dẫn Ngộ
Không đến sở Ngự Mã Giám.
Mộ Ðức Tinh Quân vâng lịnh
dẫn Ngộ Không đến giao cho viên chức trong
sở, rồi lui về.
Giám Thừa, Giám Phổ, Ðiểu Bộ, Lực Sĩ, bốn người đến thỉnh tân Bật Mã Ôn là Tôn Ngộ Không lên ngồi trên, rồi đem sổ bộ giao trình xét.
Ngộ Không từ lãnh chức
ấy, ngày đêm lo chăm sóc mọi việc, chỉ hoàn
hảo chức Ðiểu Bộ lo lúa cỏ cho ngựa, chức
Giám Thừa, Giám Phó thính tùng Bật Mã Ôn để
sai khiến, còn Lực Sĩ lo coi tắm ngựa.
Tôn Ngộ Không ở đó được nửa tháng,
ngựa mập vô cùng. Các viên chức đều hoan nghênh,
thết tiệc ăn mừng. Giữa tiệc Ngộ Không
hỏi các quan:
- Chức Bật Mã Ôn của ta như thế nào ?
Các quan nói :
- Chức ấy ở sở Ngự Mã nầy to hơn
hết.
Tôn Ngộ Không hỏi:
- Vậy chức nầy thuộc về phẩm trật
thứ mấy?
Các quan thưa:
- Chức ấy không có phẩm trật gì cả.
Tôn Ngộ Không trợn mắt nói:
- Không có phẩm trật nghĩa là lớn hết thảy
phải không?
Các quan nói:
- Chức tước nầy là hạng bét nơi thiên
triều, chỉ có quyền điều khiển chúng tôi,
và toàn thể ngựa trong sở này thôi. Cũng may ông
sung bổ vào đây ngựa mập béo mới được
tiếng khen và được thết tiệc ăn
mừng. Nếu rủi ngựa ốm thì không khỏi
bị quở phạt.
Tôn Ngộ Không nghe xong, nổi giận nghiến răng,
đập bàn nói:
- Ngọc Hoàng khi ta lắm! Lão Tôn đang ở núi Hoa
Quả xưng vương, thế mà lại gạt đến
đây làm tên giữ ngựa, khinh bạc quá lẽ! Thôi ta về kẻo mang tiếng sỉ nhục!
Dứt lời, hét lên một tiếng, lấy cây kim
dắt nơi vành tai thổi lên, hóa ra cây thiết
bảng múa tít. Vừa múa vừa tiến ra cửa Nam
thiên. Các thiên tướng biết mặt Bật Mã Ôn không
hề ngăn cản .
Tôn Ngộ Không ra khỏi Nam thiên môn dùng
phép cân đẩu vân bay về núi Hoa Quả.
Vừa về đến, thấy Tứ Kiện tướng,
cùng các Yêu vương đang diễn binh, Nhị hầu vương
coi tập võ, Tôn Ngộ Không kêu lớn:
- Lão Tôn về đây, chúng bay mau đón tiếp.
Các Yêu vương nghe tiếng rần rộ kéo ra.
Ngộ Không vào động, ngồi trên bệ, Yêu vương
và khỉ con đem rượu lên mừng, và nói:
- Ðại vương đi mười lăm năm, có
được toại ý không?
Tôn Ngộ Không buồn bã nói:
- Ta đi mới vừa nửa tháng sao
lại gọi là mười lăm năm, chúng bay quả
không hiểu gì ngày tháng!
Nhị Hầu vương nói:
- Ðại vương chưa rõ, trên
trời một ngày, thì trung giới một năm vậy.
Tôn Ngộ Không ngẫm nghĩ khen:
- Nhị hầu vương thông minh
lắm! Vậy từ nay cho cai trị Tứ Kiện tướng.
Tứ kiện tướng hỏi:
- Chẳng hay Ngọc Hoàng cho thiên sứ
vời Ðại vương lên Thiên Ðình nhận lãnh
chức chi?
Tôn Ngộ Không lắc đầu nói:
- Thượng Ðế không biết dùng
người, phong ta làm Bật Mã Ôn. Ta nghe tên tốt
nhận lầm, làm tới mười lăm ngày. Sau
hỏi rõ thì chức ấy hèn mọn lắm, nên căm
giận đạp bàn bỏ về đây.
Các khỉ nói:
- Ðại vương là chúa tể
nhất phương, sớm tối có kẻ hầu người
hạ, sang trọng như thế này mà Ngọc Hoàng cho làm
chức chăn ngựa, đáng buồn thay! Thôi, chúng tôi
đem thêm rượu cho Ðại vương giải khuây!
Bấy giờ trời chiều nắng nhạt, động
Thủy Liêm gió thổi rạc rào, lẫn tiếng nước
reo nơi cầu như những điệu nhạc du dương.
Ngộ Không ngồi uống rượu,
lòng căm tức chuyện đã qua, vừa buồn
vừa giận, muốn có một chức tước ngang
với Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Bỗn có tiểu hầu vào báo :
- Tâu Ðại vưong, có Ðộc Giác
Quỉ vương xin vào ra mắt, còn chờ lệnh ngoài
cửa động.
Ngộ Không truyền cho vào Ðộc Giác
quỉ vào lạy thưa:
- Nghe Ðại vương chiêu hiền từ lâu, tiếc
rằng tôi chưa có dịp! Nay nghe Ðại vương lãnh
chức trời vinh qui hồi động, nên đến
đây xin chịu hầu dưới trướng. Nếu
Ðại vương nhận lời, tôi nguyện đem
hết tài năng phò tá.
Tôn Ngộ Không mừng rỡ, truyền
ban áo mão, và phong Ðộc Giác Quỉ vương làm
chức Tiên phong.
Ðộc Giác Quỉ vương bước tới lạy
tạ thưa:
- Chẳng hay Ðại vương nhận
chức chi tại Thiên triều?
Tôn Ngộ Không nói:
- Thượng Ðế bạc đãi người
hiền, không biết chọn tài phong tướng, nên cho
ta làm chức Bật Mã Ôn!
Ðộc Giác Quỉ vương nói:
- Ðại vương thần thông biến hóa có một không
hai, lẽ nào làm chức chăn ngựa. Ðáng ra phải
chức tước ngang trời mới xứng.
Ngộ Không nói:
- Chính thế! Tài ta đâu thua kém Ngọc Hoàng.
Liền cho Tứ Kiện tướng dựng giữa sân
một cây cờ cao, đề bốn chữ lớn Tề
Thiên Ðại Thánh và truyền
bảy mươi hai động phải kêu Ngộ Không
bằng cái chức tước đó.
Cả thảy đều tuân lệnh.
Giữa lúc ấy, trên thượng giới, Ngọc Hoàng
lâm triều, bỗng có Trương thiên sư Giám
thừa và Giám phó đến bái yết, vào tâu:
- Bật Mã Ôn Tôn Ngộ Không chê chức nhỏ không
nhận, hôm qua đã trốn về trung giới.
Ngọc Hoàng còn đang ngơ ngác thì lại có Tăng trưởng
Thiên vương và các Thiên tướng vào tâu:
- Chẳng biết vì cớ gì Bật Mã Ôn bỏ ra
cửa Nam thiên, đến nay chưa thấy trở
lại.
Thượng Ðế phán:
- Thôi, các khanh hãy lui về, để trẫm sai thiên binh
đi bắt nó.
Tháp tháp Lý Thiên vương và Na Tra tam
thái tử quì tâu:
- Chúng tôi tuy bất tài xin tình nguyện đi bắt con yêu
hầu ấy.
Thượng Ðế nhậm lời, phong Lý Thiên Vương
làm chức Hoàng Mã Ðại nguyên soái, Na Tra làm Tam Ðàng
Hải Hội Ðại thần dẫn thiên binh đuổi
theo Ngộ không truy nã.
Lý Thiên vương cùng Na Tra vốn là hai cha con, cùng ở
chung một điện.
Sau khi được lệnh, Lý Thiên vương cùng Na Tra
trở về kiểm điểm thiên binh, chọn Cự
Linh thần làm tiên phong, Ngự Ðỗ Dược Xoa làm tướng
cạnh, nhắm núi Hoa Quả thẳng tiến.
Ðến nơi, Lý Thiên vương truyền hạ trại
cách hai mươi dặm rồi sai Cự Linh thần đến
khiêu chiến.
Cự Linh thần vác búa đồng chạy đến
động Thủy Liêm hét như sấm, kêu Ngộ Không
nói:
- Bật Mã Ôn, ta vâng lệnh Thượng Ðế đến
đây bắt ngươi trị tội, hãy mau đem xác
ra mà nộp.
Tiểu yêu thất kinh chạy vào báo:
- Có tướng trời sai xuống bảo Tề Thiên Ðại
Thánh ra hàng, bằng không nó giết chết cả động.
Tôn Ngộ Không nổi giận, xách thiết bảng
chạy ra hỏi:
- Ðứa nào cả gan dám đến đây hỗn láo
với Tôn ông?
Cự Linh thần nói:
- Con Khỉ khốn nạn kia! Mày biết ta là ai mà dám
hung hăng như vậy?
Ngộ Không hét:
- Ngươi là tên thần đê tiện ở đâu, Tôn
ông biết đến làm gì? Hãy nói tên đi kẻo ta
đập vỡ sọ!
Cự Linh thần giận dữ nói:
- Loài Khỉ xem ra xấc láo thật. Ta là tiên phuông
của Lý Thiên Vương tên Cự Linh thần đây. Hãy
bỏ vũ khí quy hàng, bằng không sẽ tan xương
nát thịt.
Tôn Ngộ Không mắng:
- Cái thứ thần mạt đó lẽ ra ta cho một
thiết bảng cho rồi đời. Ngặt vì giết
ngươi không biết sai ai trở về báo tin. Ngươi
về báo với Thượng Ðế rằng: Thượng
Ðế không biết dùng người hiền, lão Tôn tài năng
vô địch, sao lại cho làm chức giữ ngựa?
Cự Linh thần hỏi:
- Ý của ngươi muốn Thượng Ðế phong
chức chi?
Ngộ Không chỉ cây cờ trước động nói:
- Ngươi hãy coi bốn chữ trên cây cờ kia mà
về tâu với Thượng Ðế phong cho ta. Nếu không
ta đem binh đập phá cửa trời, chiếc ngai vàng
của Thượng Ðế cũng chưa vững, đừng
nói đến chuyện bắt ta nữa.
Cự Linh thần nghe nói, ngó lên, thấy có đề
bốn chữ Tề Thiên Ðại
Thánh, liền cười nói:
- Con Khỉ nầy muốn loạn thiên cung, nên mới dám
đề Tề Thiên Ðại Thánh.
Vậy ta đập một búa cho xong đời, để
chi sanh chuyện.
Liền vung búa chém xuống, Tôn Ngộ Không đưa
thiết bảng lên đỡ, chạm vào cán búa Cự
Linh gãy hai!
Cự Linh hoảng hồn quay đầu
chạy riết.
Ngộ Không cười, nói:
- Ta chẳng thèm giết làm gì! Ðừng sợ chạy. Hãy
về báo lại cho đúng lời ta.
Cự Linh chạy thẳng về
trại thở hào hển thưa:
- Bật Mã Ôn mạ Ngọc Hoàng tài cao, tôi sút thế gãy
búa, xin về đây chịu tội!
Lý Thiên vương nổi giận nói:
- Ngươi làm mất oai ta phải chém đầu làm gương
cho kẻ khác.
Na Tra vội vã thưa:
- Xin phụ thân bớt giận, lượng thứ cho
Cự Linh thần, để con ra trận mới rõ tài
cao thấp.
Lý Thiên vương y lời, tha tội cho Cự Linh và
truyền Na Tra ra trận.
Na Tra nai nịt, kiểm điểm thiên binh kéo tới
động Thủy Liêm khiêu chiến.
Tôn Ngộ Không vừa đánh Cự Linh chạy, chưa
kịp vào động, bỗng thấy một tướng
nhỏ, thân hình vạm vỡ, lướt tới như
bay, liền hỏi:
- Ngươi con nhà ai? Thân xác bé mọn, đến đây
làm gì đó?
Na Tra nạt lớn:
- Yêu hầu chớ vô lễ, ta là Na Tra tam Thái tử, con
thứ ba của Lý Thiên vương, nay vâng thánh chỉ
đến bắt ngươi về nạp thiên đình
trị tội.
Tôn Ngộ Không mỉm cười nói:
- Bé ơi? Miệng còn hôi sữa, ta giết không đành.
Ngươi hãy xem cờ của ta kia, về tâu với Thượng
Ðế phong ta chức ấy, bằng không ta phá tới thiên
cung, đừng trách ta vô đạo.
Na Tra ngước mắt ng lên thấy cờ đề
bốn chữ, cả giận hét:
- Ngươi thần thông bao nhiêu, dám xưng danh ngang hàng
thượng đế? Ta quyết chém một gươm
cho mất mạng.
Tôn Ngộ Không nói:
- Ta đứng trơ ra đây cho ngươi tha hồ chém.
Na Tra nổi giận niệm chú biến ra ba đầu sáu
tay, cầm sáu món binh khí, gươm chém yêu, dao chém yêu,
trái cầu thêu, chày bàn yêu, bánh xe hóa lửa . Sáu tay
đều đánh vãi vào Ngộ Không một lượt.
Ngộ Không giật mình nói:
- Cha chả, thằng con nít nầy cũng biết biến
hóa. Song đừng láu táu mà bỏ mạng! Hăy coi phép
của ta đây!
Liền hét lên một tiếng, tức thì hóa ra ba đầu
sáu tay, cầm sáu thiết bảng xốc tới đập
Na Tra. Bửu bối đụng nhau vang lên như trời
long đất lở!
Ðánh hơn bốn mươi hiệp. Na
Tra niệm chú biến ra muôn ngàn thứ binh khí nữa, bay
liệng đầy trời, Tôn Ngộ Không thấy
thế liền quăng thiết bảng lên biến ra muôn
ngàn thiết bảng, đánh vẹt hết những binh khí
của Na Tra.
Thừa dịp ấy Tôn Ngộ Không nhổ một
sợi lông biến ra hình giả, cho đánh với Na Tra,
còn mình thì nhảy vòng ra sau lưng giơ thiết
bảng đập xuống.
Na Tra thất kinh, thu hình bỏ chạy.
Lý thiên vương đang ngồi lượng kế,
bỗng thấy con hơ hải chạy về liền
hỏi:
- Con Khỉ ấy thần thông bậc nào
mà con phải thua chạy vậy?
Na Tra sụp lạy tạ tội và thuật lại đầu
đuôi!
- Như vậy, ta khoan đánh với nó
đã. Hãy về tâu lại xin thêm binh tướng đến
vây bắt mới đặng .
Na Tra vâng lời. Cha con cùng nhau lục tục kéo binh
về.
Tôn Ngộ Không thắng trận, quay về động.
Bảy mươi hai Yêu vương
đều đến chúc mừng và bày tiệc linh đình
thết đãi.
Trong bàn tiệc Tôn Ngộ Không thấy có sáu vị Ma vương
tụ hội bèn nói:
- Ta đã xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, vậy sáu
anh em cùng xưng Ðại Thánh luôn.
Sáu người vâng lời cùng xưng:
Ngưu Ma vương xưng Bình Thiên
Ðại Thánh.
Giao Ma vương xưng Phúc Hải Ðại
Thánh.
Bàng Ma vương xưng Hỗn Thiên
Ðại Thánh.
Sư Ðà vương xưng Di Sơn
Ðại Thánh.
Nhĩ Hầu vương xưng Thông
Phong Ðại Thánh .
Ngộ Nhung vương xưng Khu
Thần Ðại Thánh.
Bảy vị Ðại Thánh ngang tàng
nầy tự xưng theo ý muốn, không gì đến
trời đất nữa.
Cha con Lý Thiên vương về tới Thiên Ðình, vào
yết kiến Ngọc Hoàng, rồi quì tâu:
- Thần vâng chỉ xuống bắt Yêu hầu. Nhưng vì
nó tài cao xuất chúng, sức mạnh khó đương!
Thần đành phải về tâu lại. Xin Bệ hạ
sai thêm binh tướng, may ra mới bắt nó được.
Ngọc Hoàng ngơ ngác nói:
- Sá gì con yêu ấy, tài phép là bao mà phải xin thêm binh tướng?
Na Tra vội vã quì tâu:
- Xin Ngọc Hoàng tha tội, hạ thần mới dám tâu!
Tôn Ngộ Không có thiết bảng thần thông, Cự
Linh thần khiếp hồn bỏ chạy, hạ
thần cũng bị đánh trúng vai nên bại tẩu! Nó
đề cờ bốn chữ Tề
Thiên Ðại Thánh, bảo thần
về tâu lại với Ngọc Hoàng phong chức ấy thì
nó mới đầu hàng, bằng không nó đánh tới
Linh Tiêu điện.
Ngọc Hoàng nghe tâu giật mình phán:
- Loài yêu nghiệt, cả gan dám xúc phạm thiên trào! Các
thiên tướng mau xuống bắt nó đem về đây.
Thái Bạch Kim Tinh tâu:
- Yêu hầu háo danh nói bướng, nó không biết
chức nào lớn nhỏ. Nếu sai binh tướng đi
bắt nhọc công, mà chưa chắc đã bắt
được! Xin Ngọc hoàng hạ chỉ chiêu an, phong
chức ấy cho nó, tưởng cũng không tốn gì lương
bổng, mà cũng chẳng hại gì của thiên
triều. Chẳng qua đó chỉ là một hư danh.
Ngọc Hoàng phán hỏi:
- Sao gọi là hư danh?
Thái Bạch Kim Tinh tâu:
- Thuở nay có chức Tề Thiên
Ðại Thánh bao giờ? Nay phong cho
nó là hữu danh vô vị, không có phẩm trật nào, không
có quyền cai trị ai. Như vậy nó sẽ an lòng,
khỏi còn phá phách.
Ngọc Hoàng y tấu truyền viết chiếu, sai Kim Tinh
hạ giới chiêu an lần nữa.
Thái Bạch Kim Tinh phụng chiếu, đằng vân
thẳng xuống núi Hoa Quả, vào động Thủy Liêm,
thấy trước dinh lẫy lừng sát khí, rực ánh
hào quang, yêu tinh vác đao xách búa, vượn khỉ múa
gậy trương cung.
Chúng vừa thấy Thái Bạch đến, liền xốc tới bao vây, đứa nào, đứa ấy vẻ mặt hầm hầm dữ tợn.
Thái Bạch Kim Tinh nói:
- Chúng bay mau vào báo với Ðại Thánh, có ta là Thiên
sứ, phụng sắc chiêu an, mau ra tiếp chiếu.
Các yêu vào báo, Tôn Ngộ Không nói:
- Vậy thì tốt lắm! Lần trước Thái
Bạch mời ta lên Thiên đình, tuy phong chức nhỏ,
song cũng giúp ta thuộc đường hiểu lối.
Lần nầy chịu khó đến nữa, chắc
Ngọc Hoàng thuận ý phong ta chức lớn.
Liền truyền quân sắp hàng hai bên rồi bước
ra động chào Thái Bạch và hỏi:
- Xin mời Lão tinh vào động.
Thái Bạch vào đứng giữa động nói lớn:
- Ngày trước Ðại Thánh chê chức nhỏ, bỏ
trốn về đây, nên Ngọc Hoàng sai Lý Thiên vương
và Na Tra xuống vấn tội. Hai người ấy
trở về báo rằng: Ðại Thánh dựng cờ đòi
phong chức Tề Thiên. Các thiên tướng đều
giận dữ, muốn đem thiên binh xuống bắt Ðại
Thánh. Riêng tôi năm lần, mấy lượt, tâu
Ngọc Hoàng xin tha tội cho Ðại Thánh, và xin cho Ðại
Thánh được lãnh chức ấy. Ngọc Hoàng đã
nhận lời, vậy Ðại Thánh theo ta về trời
nhận chức.
Tôn Ngộ Không cười lớn nói:
- Lần trước Lão tinh đã tốn công, lần
nầy nữa giúp nữa, tôi xin đa tạ. Nhưng không
biết trên trời có chức Tề Thiên Ðại Thánh chăng?
Thái Bạch Kim Tinh nghe hỏi cười thầm, nói:
- Bởi có, nên tôi mới tâu phong, xin Ðại Thánh đừng
nghi kỵ, mau lên lãnh chức kẻo Ngọc Hoàng mong
chờ.
Tan Ngộ Không muốn mời thiên sứ dự yến, nhưng
Thái Bạch tìm cách từ chối rồi hai người cùng
đằng vân, bay thẳng đến Thiên -đình .
Ðến cửa Nam thiên các thiên tướng đều vòng
tay nghinh tiếp, không hề ngăn đón như lần trước.
Thái Bạch Kim Tinh đi thẳng vào bệ ngọc quì tâu:
- Hạ thần vâng chỉ đòi Bật Mã Ôn về
đến đây, xin Ngọc Hoàng dạy bảo.
Ngọc Hoàng đòi Ngộ Không đến trước
bệ phán:
- Nay ta chiều theo ý muốn, phong cho ngươi chức
Tề Thiên Ðại Thánh là tột bực rồi.
Vậy từ nay đừng gây chiến mà phạm
tội.
Tôn Ngộ Không nhe răng đắc ý, rồi chỉ
trả lời gọn hai tiếng: Tạ ơn!
Ngọc Hoàng liền truyền Lò
Bang và Trương Bang cất một biệt dinh gọi là
Tề Thiên Bàng Thánh gần vườn đào. Trong
dinh chia làm hai phòng: Ân Linh tự và Ninh Thần tự, có
tiên lại ở thường xuyên để chầu
chực. Tiếp đó Ngọc Hoàng ban cho Tề Thiên hai ve
ngự tửu, mười cái bông vàng, và sai Ngũ Ðẩu
Tinh Quân đưa Tề Thiên về tư phủ.
Về đến phủ, Tề Thiên bày tiệc rượu
đãi Ngũ Ðẩu Tinh Quân và các tiên.
Tiệc mãn, ai về dinh nấy, còn Tề Thiên ở lại hưởng cảnh thanh nhàn muốn ra vào chẳng ai cấm ngăn.
Hồi 5
Phá vườn đào, Ðại Thánh
trộm linh đơn
Loạn cung trời, chư thần bị bại trận
Nói về Tôn Ngộ Không làm chức Tề Thiên Ðại Thánh, không thuộc ngạch nào, chẳng biết phẩm chi, thấy trước cửa có đề năm chữ Tề Thiên Ðại Thánh Phủ, thì tin là chức ấy, ngày ăn tối ngủ, có hai vị tiên lại chầu hầu, dạo chơi khắp cả thiên cung, môt mình thong thả, gặp Tam Thanh thì kêu bằng tướng công, thấy Tứ Ðế thì chào rằng Bệ Hạ! Còn Cửu Diện là chín sao Bắc đẩu, năm tướng Ngũ phương, bốn vị Thiên vương, Nhị thập bát tú, Lục đinh, Lục giáp, năm ông Ngũ lão, các vị thiên thần đều quen biết, kêu bằng anh em! Nay tới hướng Ðông, mai chơi phía Bắc, cứ việc dạo chơi hoài, các vị thiên thần đà lát mặt!
Ngày kia Thượng Ðế lâm trào,
có Tinh Dương Hứa Chân quân tâu rằng:
- Tề Thiên Ðại Thánh mỗi ngày
dạo khắp các nơi, ở không ắt sanh sự, xin
Bệ Hạ cấp cho nó coi một việc mà cầm chân,
để khỏi lo sanh tệ.
Thượng Ðế nạp tấu, bèn
đòi Tề Thiên Ðại Thánh vào chầu.
Tề Thiên đến bái rồi tâu
rằng:
- Chẳng hay Bệ Hạ đòi Lão Tôn
đến ban thưởng vật chi?
Thượng Ðế phán rằng:
- Trẫm thấy khanh ở không,
chẳng có phần chi cai trị cho vui, nên đòi khanh vào
đây, trẫm giao vườn Bàn đào cho khanh cai
trị, coi giữ cho thường, chớ nên sơ hở
để chúng phá phách .
Tề Thiên mừng rỡ, tạ ơn rồi lui ra.
Về gần tới phủ, ghé vườn
Bàn đào, mới đến cửa ngõ, có Thổ Ðịa
giữ vườn ấy đón lại hỏi rằng:
- Ðại Thánh đi đâu đây?
Tề Thiên nói:
- Ta mới vâng chỉ vườn này, nên
đến mà tra xét.
Thổ Ðịa làm lễ, rồi kêu các
lực sĩ ra dẫn Tề Thiên vào vườn, Thổ
Ðịa cũng theo hầu.
Tề Thiên đi coi khắp hết,
rồi hỏi Thổ Ðịa vườn này có mấy cây
đào?
Thổ Ðịa thưa rằng:
- Nội vườn cộng hết
thảy là ba ngàn sáu trăm cây, phía trước một ngàn
hai trăm cây bông trái nhỏ, ba ngàn năm mới chín
một kỳ, ăn nó thì thành tiên, nhẹ mình mà thêm
sức. Còn giữa vườn một ngàn hai trăm cây, bông
trái có từng, trái ngọt lắm, sáu ngàn năm mới
chín một kỳ, ăn nó thì bay như chim mà trường
sinh bất lão. Còn phía sau một ngàn hai trăm cây, chín ngàn
năm mới chín một kỳ, trái có gân màu tía, nhỏ
hột hơn hết, ăn nó thì sống bằng trời
đất.
Tề Thiên nghe nói thì mừng thầm,
đếm y số rồi trở về phủ.
Từ đó về sau không đi chơi
đâu hết, hễ năm ba bữa thì ra vườn
đào một lần, đi thì có Thổ Ðịa và
Lực sĩ với Tiên lại theo hầu.
Ngày kia thấy vườn đào có trái
chín, tìm tâm muốn nếm cho biết mùi, ngặt quan
hầu theo hoài, làm sao mà ăn lén cho đặng.
Tề Thiên kiếm kế mà nói
rằng:
- Thôi, các ngươi ra ngoài cửa mà
giữ cửa vườn, để ta ở nhà mát mà
nghỉ một chút .
Ai nấy đều vâng lệnh mà lui ra
hết.
Chừng đó Tề Thiên lại nhà mát
cởi đồ y phục ra, nhảy phóc lên cây đào,
lựa trái nào chín mùi thì hái mà ăn tươi, làm
một bụng lứ lừ mới nhảy xuống,
bận áo đội lại xong rồi, ra cửa kêu Tiên
lại về phủ.
Từ đó sắp sau, bắt bén, làm
thế đó hoài, làm riết gần hết vườn
đào!
Ngày kia Vương Mẫu nương nương
ở cung Diêu Trì tại hướng Tây (Bà này là chúa
mấy vị tiên nữ), đến kỳ đào chín
sửa soạn làm hội Bàn Ðào, bèn sai bảy nàng tiên
bận bảy sắc áo, là: Thanh y tiên nữ, Huỳnh y tiên
nữ, Tạo y tiên nữ, Tố y tiên nữ, Hồng y tiên
nữ, Tử y tiên nữ, Lục y tiên nữ, xách giỏ
lam đi hái trái Bàn đào.
Khi bảy nàng tiên đến cửa vườn,
thì thấy có Thổ Ðịa, Lực sĩ và Tiên lại
giữ cửa.
Bảy nàng tiên nói:
- Chúng tôi vâng lệnh Vương
Mẫu đến đây hái đào về làm hội .
Thổ Ðịa nói:
- Khoan vào đã, các cô! Xưa khác nay khác.
Vả Thượng Ðế có sai Tề Thiên Ðại Thánh
cai trị vườn này, chờ chúng tôi thưa lại
đã.
Thất tiên hỏi:
- Tề Thiên Ðại Thánh bây giờ
ở đâu?
Thổ Ðịa nói:
- Ðại Thánh ở trong vườn,
đương ngủ trong nhà mát .
Thất tiên nói:
- Chúng tôi đi có giờ khắc,
chẳng dám trễ lâu, xin ông dắt vào nhà mát mà ra
mắt, chớ biết chừng nào ngài dậy mà chờ!
Thổ Ðịa nghe các tiên nói phải,
liền dắt Thất tiên nữ vào nhà mát, thấy áo mão
để đó mà không biết Ðại Thánh đi đâu,
kiếm cùng vườn mà chẳng thấy!
Té ra Ðại Thánh ăn vụng no
rồi biến hình ra nhỏ còn hai tấc, chun nằm trong
hột đào mà ngủ, nên kiếm không đặng.
Còn Thất tiên nữ nóng về nên nói
rằng:
- Chúng tôi vâng lệnh Vương
Mẫu đến đây, mà kiếm Ðại Thánh chẳng
đặng, lẽ nào dám về không!
Tiên lại nói:
- Ðại Thánh hay dạo đã quen,
chắc là đi tìm bạn, các cô vâng chỉ thì hái
lần đi, chừng Ðại Thánh về, chúng tôi sẽ
thưa lại .
Thất tiên nữ y lời, ra vườn
trước hái đầy ba giỏ. Rồi lại vườn
sau không thấy đào chín, còn những trái xanh, là bị
Tề Thiên ăn hỗn!
Thất tiên nữ nói:
- Lạ này, hội này là hội
lớn, chánh chín ngàn năm, sao vườn này không có trái
chín, hái sao cho đầy một giỏ.
Bởi vườn sau trái ít, nên hái đặng bảy giỏ mà thôi. Ba thứ đào vì sao lại chín một lượt? Là vì ba ngàn năm chín một thứ, hái hai giỏ, hội nhỏ; sáu ngàn năm chín một thứ nữa, hái hai thứ đặng sáu giỏ thì hội trung, đến chín ngàn năm chín một thứ nữa, đặng bảy giỏ nên chín ngàn năm thì đại hội.
Khi Thất tiên nữ kiếm khắp vườn,
thấy phía nam trái đào ở trên nhành nửa xanh
nửa đỏ.
Thanh y tiên nữ kéo nhành ấy
xuống, Huỳnh y tiên nữ hái rồi, Thanh y tiên nữ
buông nhành đào bật lên .
Tề Thiên té nhào xuống, giật mình
thức dậy, hiện hình rút thiết bảng hét
lớn rằng:
- Chúng bây là yêu quái ở đâu? Sao dám
cả gan hái đào trộm .
Thất tiên nữ hãi kinh đồng
quỳ xuống mà thưa rằng:
- Chúng tôi không phải yêu quái, thiệt
là Thất tiên nữ vâng lệnh Vương Mẫu hái
đào làm hội, có trình Thổ Ðịa, vào kiếm Ðại
Thánh không đặng, chị em tôi sợ trễ nên
phải hái lần, xin Ðại Thánh bớt giận và tha
tội .
Tề Thiên nghe rõ thì đổi giận
làm vui mà nói rằng:
- Thôi, các tiên nga chờ dậy.
Chẳng hay Vương Mẫu làm tiệc đãi ai?
Thất tiên nữ thưa rằng:
- Lệ thường thì mời Phật
Tổ bên Tây Phương, Quan Âm bên Nam Hải, Sùng Ân bên
Ðông huê, Huỳnh Linh bên Bắc địa, Huỳnh Giác
ở Trung ương và Tam Thanh, Tứ đế, Thái
Ất, Bát tiên, Ðịa tạng vương, Thập điện,
Tứ Hải long vương, và các vị thần tiên tinh
tú, đồng hội tề, rước Thượng Ðế
qua phó Bàn Ðào .
Tề Thiên hỏi:
- Có thỉnh ta chăng?
Thất tiên thưa:
- Chúng tôi không nghe nói .
Tề Thiên nói:
- Ta làm chức Tề Thiên Ðại Thánh
lại có công giữ vườn sao không mời ta dự
tiệc.
Thất tiên nữ thưa rằng:
- Lệ cũ thì vậy, chớ kỳ này
không biết thế nào?
Tề Thiên nói:
- Phải, thôi, các cô đứng cho
vững đã .
Nói rồi niệm chú làm phép định
thân, chỉ các tiên nga mà nói rằng:
- Ðứng đó, đứng đó!
Thất tiên nữ đứng như
trời trồng.
Tề Thiên thấy các tiên nữ trơ
trơ dưới cội đào, liền nhảy vào nhà mát
mặc áo đội mão, rồi cân đẩu vân đi phó
hội trước, xảy gặp Xích Cước đại
tiên .
Tề Thiên sinh ra một kế, liền
bái mà hỏi rằng:
- Chẳng hay ông đạo đi đâu?
Xích Cước đại tiên nói:
- Tôi đi phó hội Bàn Ðào.
Tề Thiên nói:
- Thượng Ðế khen tôi có tài cân
đẩu vân hay lắm, nên sai tôi đón các thần tiên
mà dặn rằng: "Lệ này phải hội tề
tại đền Thông Minh; tập lễ xong rồi,
sẽ hội Bàn Ðào luôn thể".
Xích Cước ngỡ là thiệt
cải lệ, nên quay lại đi qua Thông Minh điện.
Còn Tề Thiên thấy Xích Cước
đi xa rồi niệm chú ... Biến hình ra Xích Cước,
rồi riết qua hội Bàn Ðào.
Khi vào tới Bửu các, thấy
tiệc dọn chỉnh tề, những đồ mỹ
miều kể đà không xiết, mà không có rượu
với đào, và chưa thấy ai dự tiệc.
Tề Thiên muốn làm lén ba miếng,
xảy có mùi rượu bên phía Ðông phất qua thơm
nực mũi, Tề Thiên bước qua thấy hũ rượu
rất ngon thì bắt thèm, ngặt có quan canh, biết làm
sao đặng! Liền nhổ lông bỏ vào miệng nhai
nhỏ phun ra, hóa ra con buồn ngủ bay đậu trên
mặt quân canh, quân liền ngủ gục hết.
Lúc này Tề Thiên làm lộng, lựa
mấy ngón nhất hạng bưng qua phía Ðông mà ăn, nên
cỗ bàn lỡ hết.
Tề Thiên ăn đồ no nốc,
uống rượu say mềm! Nghĩ rằng:
- Không xong, khi mình giữ vườn thì
lựa đào ngất ăn hết, nay lại ăn
vụng làm lỡ hết cỗ bàn, khui hết mấy chinh
rượu mà uống! Nếu đến chừng khách
tới, thì chúng bắt chẳng sai, chi bằng lén lén
về dinh mình mà ngủ, dầu có lậu ra cũng dễ
chối .
Làm tuồng tỉnh táo riết về phủ Tề Thiên, nhằm lúc say ba ngù, đi lạc qua cung Ðâu Suất.
Khi ấy Tề Thiên thấy bảng
đề Ðâu Suất cung thì sực nhớ rằng:
- Cung Ðâu Suất là chỗ Thái Thượng
lão quân ở, nếu vậy mình đã đi lạc xa
rồi! Xưa rày cũng lâu đến ông này, sẵn
dịp ghé thăm luôn thể .
Nói rồi sửa bước vào,
chẳng dè ông Thái Thượng mắc giảng kinh trên
lầu với ông Nhiên Ðăng, các đệ tử đều
đứng hầu nghe giảng, nên Tề Thiên vào cung Ðâu
Suất không thấy một người, liền đi
thẳng vào phòng, thấy trong năm cái bầu đựng
những thuốc kim đơn.
Tề Thiên mừng quá nói rằng:
- Từ mình thành tiên tới nay, biết
thứ thuốc này là quý, song chưa đặng luyện
chế mà cứu người, may gặp vật này, mà không
có chủ, vậy mình uống thử ít viên .
Nói rồi trút bầu thuốc bỏ vào
miệng nhai nuốt.
Tề Thiên làm một hơi sạch trơn
trong bầu chẳng còn huờn nào hết, nhờ
thuốc giã rượu, hết say, giựt mình ngẫm nghĩ
rằng:
- Không xong rồi, họa lớn bằng
trời, không phải dễ! Nếu Thượng Ðế
hay đặng ắt tánh mạng chẳng còn! Chi bằng
chạy về động Thủy Liêm mà trốn .
Nói rồi nhảy tới Tây Thiên Môn, tàng
hình ra khỏi cửa, cân đẩu vân nhảy xuống
Hoa Quả Sơn, kêu lớn rằng:
- Chúng bây ôi! Ta đã về đây!
Yêu tinh và quần hầu quỳ lạy
mà thưa rằng:
- Ðại Thánh nỡ nào bỏ chúng tôi
lâu quá vậy!
Tề Thiên nói:
- Không bao lâu mà!
Vừa nói vừa đi vào động,
Tứ kiện tướng lạy mừng rồi hỏi
rằng:
- Ðại Thánh đã ở trên trời
một trăm mười một năm, chẳng hay làm
chức chi vậy?
Tề Thiên nói:
- Ta nhớ đâu ba bốn tháng, mà dưới
thế này đến một trăm mười một năm!
Nói cho phải, chuyến này khá. Thượng Ðế
hậu đãi và phong cho Tề Thiên Ðại Thánh .
Lại thuật hết các công chuyện
từ khi đi cho đến về đây. Yêu quỷ và
quần hầu mừng rỡ, rót rượu nước
dừa dâng lên. Tề Thiên hớp một miếng, rồi
phun phèo phèo, nhăn mặt mà rằng:
- Uống không đặng! Hồi
sớm ta lại cung Diêu Trì uống những quỳnh tương
tiên tửu, hơi thơm ngát, vị ngạt ngào, thương
hại cho chúng bây biết làm sao mà uống cho đặng
đồ quý ấy! Vậy thì ta lén lên trộm về vài
hũ các ngươi uống một đứa một chút
cũng đặng trường sinh .
Yêu quỷ và quần hầu tạ ơn,
Tề Thiên Ðại Thánh ra khỏi cửa động làm
phép tàng hình, cân đẩu vân lén vô cung Diêu Trì, thấy
quân canh còn ngủ!
Tề Thiên lựa hai hũ lớn
cập nách, còn hai tay xách hai hũ nữa là bốn hũ,
rồi tàng hình đem về động, làm hội tiên
tửu uống với yêu quái và quần hầu.
Nói về Thất tiên nữ tới mười
hai giờ mới tan phép định thân, đồng xách
giỏ hoa lam về tâu với Vương Mẫu rằng:
- Chúng tôi hái hai vườn đào trước
y số, đến vườn đào sau không còn một
trái. Chắc Tề Thiên Ðại Thánh ăn vụng
hết. Chị em tôi đương kiếm đào,
xảy đâu Ðại Thánh nhảy ra hành hung muốn đánh,
hỏi hội này mời ai, chúng tôi nói theo lệ cũ,
rồi Ðại Thánh làm phép định thân, đến bây
giờ chúng tôi mới tỉnh hồn về đặng .
Lúc ấy Vương Mẫu nghe nói nổi giận, liền vào tâu với Thượng Ðế...
Xảy có quân canh vào tâu:
- Không biết ai ăn vụng lỡ
cỗ bàn hết, và uống rượu, lại lấy
mất hết bốn hũ quỳnh tương lớn .
Kế Tứ đại tiên sư vào tâu
rằng:
- Tôi chế thuốc Cửu Chuyển kim
đơn, đặng làm hội Ðơn Ngươn,
chẳng biết ăn trộm ở đâu mà trút hết
năm bầu. Xin Thượng Ðế cho người tra xét
.
Thượng Ðế nghe tâu lấy làm
lạ .
Xảy thấy Tiên lại vào tâu
rằng:
- Tề Thiên Ðại Thánh đi dạo hôm
qua tới bữa nay chưa về .
Thượng Ðế sanh nghi!
Kế Xích Cước đại tiên vào
tâu rằng:
- Hôm qua tôi vâng lệnh Vương
Mẫu phó hội Bàn đào, gặp Tề Thiên Ðại Thánh
nói với tôi rằng: Bệ Hạ dạy tôi đến
Thông Minh điện diễn lễ rồi sẽ phó
hội Bàn đào, tôi trở lại đền Thông Minh hôm
qua tới nay, mà chẳng thấy tin giá ngự nên tôi
phải đến đây đợi lệnh .
Thượng Ðế kinh hãi phán rằng:
- Trẫm không truyền chỉ đòi
hiền khanh, chắc là Ngộ Không nó gạt khanh đó.
Vậy thì Linh Quan đi xét bắt Ngộ Không về đây
coi nào!
Giây lát Linh Quan đi xét ra rõ cớ
ấy, trở về mà tâu rằng:
- Các việc ấy đều nơi Tôn
Ngộ Không hết; nay nó đã trốn về núi Hoa
Quả động Thủy Liêm, đang làm tiệc tiên
tửu ở dưới là rượu nó ăn trộm
đó .
Thượng Ðế nghe qua nổi trận lôi đình, hạ chỉ đòi bốn vị Thiên tướng, Lý Thiên Vương, Na Tra, Nhị thập bát tú, Cửu Diện tinh quân, Ngũ Phương yết đế, bốn vị Công Tào, các vị Thiên thần dẫn mười muôn thiên binh xuống vây núi Hoa Quả, bắt cho được Tôn Ngộ Không đem về trị tội.
Khi ấy chư thần tướng dẫn mười muôn binh xuống vây núi Hoa Quả, Lý Thiên Vương truyền trên bủa lưới khắp trời, gọi là Thiên la, dưới bủa lưới khắp đất, gọi là Ðịa võng, trên chín lớp lưới, dưới chín lớp lưới, cộng lại là mười tám lưới.
Trước sai mấy vì sao dữ
tợn, kéo binh tới trước động Thủy Liêm
khiêu chiến.
Khi tới động, Cửu Diện
tinh quân kêu rằng:
- Ðại Thánh ở đâu? Chúng ta vâng
chỉ đến đòi Ðại Thánh về trời,
nếu bất tuân thì bị giết cả động.
Tiểu yêu về báo lại...
Tề Thiên đang nhậu với Tứ kiện tướng quân và các Yêu vương, nghe báo chẳng hề sợ sệt, lại ngâm thơ rằng:
Ngỏa nguê tiệc rượu
lại ngâm thi,
Bao quản ngoài tai tiếng thị phi.
Ngâm đặng hai câu, có quân vào báo
rằng:
- Cửu Diện hung thần nhục
mạ lắm!
Tề Thiên cười rằng:
- Kệ nó đừng báo làm chi, cứ
đóng cửa cho chặt .
Nói rồi ngâm hai câu nữa:
Thơ rượu sẵn
vui ngâm lại nhậu,
Công danh chỉ tính kiếp cùng chầy.
Kế tiểu yêu vào hớt hải báo
rằng:
- Ðại Thánh ôi! Không xong! Chín vị
hung thần phá hư cửa động rồi .
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
- Ta say quá, thôi Ðộc Giác quỷ vương
dẫn bảy mươi hai chúa động ra trước,
còn ta với Tứ kiện tướng theo sau . Ðộc Giác
quỷ vương vâng lệnh dẫn bảy mươi
hai chúa động xông ra, bị Cửu Diện chận
đánh nên phải thối lại, ra không khỏi động!
Kế Tề Thiên xách thiết bảng
tới hét lớn rằng:
- Tránh Tránh!
Ðộc Giác và bảy mươi hai chúa
động tránh vẹt hai bên.
Tề Thiên xông ra đánh Cửu
Diện phải lui ra cửa động.
Cửu Diện nói rằng:
- Bật Mã Ôn không sợ chết, ngươi
phạm tội trời:
1.) Ăn vụng Bàn đào.
2.) Uống lén rượu ngự
tửu.
3.) Ăn vụng cỗ bàn của Vương
Mẫu.
4.) Lén uống thuốc kim đơn
của Lão quân.
5.) Ăn trộm ngự tửu đem
về làm tiệc, nay còn cự chống cho thêm tội
nữa sao?
Tề Thiên cười ngất nói
rằng:
- Năm điều đó quả có, ta
không thèm chối , mà bây giờ chúng bây muốn cái gì?
Cửu Diện nói:
- Nay Thượng Ðế sai chúng ta
xuống bắt ngươi, ngươi mau chịu phép,
kẻo liên lụy cả động.
Tề Thiên nổi giận nói rằng:
- Chúng bây là đồ khốn, tài phép
bao nhiêu mà nói lớn lối! Ta đập một cây cho
rồi đời.
Cửu Diện hỗn chiến, bị
Tề Thiên mạnh mẽ quá, Cửu Diện đánh không
lại vụt chạy hết, về trại thưa
rằng:
- Hầu yêu mạnh bạo vô cùng, chúng
tôi đánh không lại.
Lý Thiên Vương sai bốn vị Thiên
Vương dẫn Nhị thập bát tú kéo binh ra vây
phủ.
Tề Thiên chẳng hề nao núng,
dẫn bốn tướng mạnh và Ðộc Giác quỷ vương
với bảy mươi hai động chủ ra cự
địch.
Ðánh từ giờ thìn cho đến
mặt trời lặn, Ðộc Giác quỷ vương và
bảy mươi hai chúa động đều bị thiên
thần bắt hết, trừ ra có Tứ kiện tướng
chạy khỏi.
Còn đó Tề Thiên đương đánh với Tứ vị Thiên vương, Lý thiên Vương và Na Tra thái tử, Tề Thiên nhổ một nắm lông bỏ vô miệng nhai nhỏ phun ra, hóa hình Tề Thiên vô số, đều cầm thiết bảng trợ chiến với mình.
Tứ vị Thiên vương, Lý
Tịnh Na Tra đều bại tẩu! Tề Thiên dùn mình
thâu lông lại, về tới cửa động, thấy
Tứ Kiện Tướng dàn quân nghinh tiếp.
Tứ Kiện Tướng khóc ba
tiếng, rồi cười ba tiếng.
Tề Thiên hỏi:
- Vì cớ nào đã khóc lại cười?
Tứ Kiện Tướng thưa
rằng:
- Khóc là khóc bảy mươi hai chúa
động và quỷ vương bị bắt, còn cười
là mừng Ðại Thánh thắng trận mới về .
Tề Thiên nói:
- Sự chinh chiến thắng bại là
việc thường, hơi nào mà buồn bực. Chúng ta
ăn cho no, ngủ cho khỏe, mai bắt Thiên Vương
lại mà báo thù .
Chúng khỉ đều thỉnh lệnh.
Nói về Lý Tịnh thâu binh, các Thiên Vương về dưng yêu quái hổ hang rất nhiều, mà bắt không đặng một con khỉ.
Lý Thiên Vương truyền Thiên binh treo lục lạc theo Thiên la Ðịa võng, hễ nghe rung lục lạc thì đón bắt, đừng cho yêu hầu trốn thoát.
Hồi 6
Quan Âm phó
hội hỏi căn do,
Tiểu Thánh ra oai trừ Ðại Thánh.
Nói về Quan Âm Bồ Tát ở núi Phổ Ðà tại Nam Hải.
Khi Vương Mẫu mời phó hội, thì Quan Âm đi với
đệ tử là Lý Mộc Tra pháp danh Huệ Ngạn,
đồng đến cung Diêu trì, thấy cỗ bàn đã
lỡ hết! Tuy có mấy vị Thiên tiên, mà không ai ngồi
tiệc, cứ bàn luận chuyện Tề Thiên... Quan Âm ra
mắt các tiên, các tiên đáp lễ, rồi thuật chuyện
lại... Quan Âm nói:
- Nếu không dự tiệc thì các vị theo bần tăng
vào chầu Thượng Ðế coi thể nào!
Các tiên y lời, theo đến Thông minh điện, có bốn
vị Tiên sư và Xích cước đại tiên nghinh tiếp.
Quan Âm và các tiên bước vào, thì có Thái Thượng lão
quân và Vương Mẫu còn ở đó. Chào hỏi với
nhau rồi, Quan Âm quì tâu rằng:
- Bây giờ tính hội này làm sao?
Thượng Ðế phán rằng:
- Kỳ hội nào cũng vui, kỳ nầy bị yêu hầu
quấy rối? Nên trẫm giận sai mười muôn
thiên binh đi bắt nó, chưa thấy trở về, không
biết thắng hay là bại.
Quan Âm nói rằng:
- Vậy thì Huệ Ngạn xuống núi Hoa Quả thăm
coi thắng phụ thế nào! Nếu gặp đánh thì trợ
chiến, rồi về báo tin.
Huệ Ngạn vâng lời
xách thiết côn giáng hạ. Tới núi Hoa Quả thấy
Thiên la Ðịa võng bủa giăng, liền kêu lớn rằng:
- Ta là Nhị Thái Tử Lý Mộc Tra xin vào thám thính.
Lý Thiên Vương mở cửa
dinh. Huệ Ngạn vào lạy cha và ra mắt bốn vị
Thiên vương. Lý Thiên Vương hỏi:
- Con ở đâu tới đây?
Huệ Ngạn thưa rằng:
- Con theo Bồ Tát phó hội Bàn đào, thấy hư hết
cỗ bàn, nên Bồ Tát vào chầu Thượng Ðế.
Thượng Ðế thuật chuyện..., nên Bồ Tát sai
con đi thám thính.
Ðang nói nửa chừng, kế có quân vào báo rằng:
- Tề Thiên dẫn hầu tinh đến khiêu chiến.
Huệ Ngạn thưa rằng:
- Bồ Tát dạy con đi thám và trợ chiến, con xin
ra trận coi yêu quái thế nào?
Lý Thiên Vương nói:
- Con đi thì phải cho cẩn thận.
Huệ Ngạn quơ thiết
côn ra khỏi cửa, rồi hỏi rằng:
- Tề Thiên là ai?
Tề Thiên nói:
- Lão Tôn đây! Còn ngươi là ai đó?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là học trò Quan Âm bồ tát, con thứ hai của Lý
Thiên Vương tên là Mộc Tra tự Huệ Ngạn
đây.
Tề Thiên nói:
- Sao ngươi không ở Nam Hải mà tu, đến đây
làm gì?
Huệ Ngạn nói:
- Ta vâng lệnh thầy đi thám thính, thấy ngươi
khiêu chiến, nên ta ra mà bắt ngươi.
Tề Thiên nói:
- Mi chớ khoe tài, ta đập mi một cái cho biết.
Huệ Ngạn giơ côn ra đỡ, đánh đặng
sáu mươi hiệp Huệ Ngạn chạy dài. Tề
Thiên thâu quân về động.
Còn Huệ Ngạn chạy về thở dốc mà rằng:
- Tề Thiên thiệt có tài, con cự đà không lại.
Lý Thiên Vương hoảng kinh truyền viết biểu cầu
cứu, sai Ðại Lực quỷ vương theo Huệ Ngạn
về trời dâng biểu.
Khi ấy Huệ Ngạn về thuật chuyện cho Quan Âm
nghe Quan Âm còn suy nghĩ. Còn Ðại Lực quỷ vương
dâng sớ Thượng Ðế coi rồi phán rằng:
- Xá gì một con quỷ mà mười muôn Thiên binh làm
không lại, mà phải xin tiếp cứu! Bây giờ tính
sai đạo binh nào?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
- Bệ Hạ chớ lo! Bần tăng dâng một vị
thần, bắt yêu hầu nháy mắt.
Thượng Ðế phán hỏi:
- Bồ Tát cử ai?
Quan Âm tâu rằng:
- Người ấy kêu Bệ Hạ bằng cậu ruột.
Nhị Lang hiền thánh tên Dương Tiễn, khi trước
giết sáu con yêu, lại có sáu người anh em bạn tại
Mai Sơn, saÜn có 1200 thần thảo đầu, thần thông
quảng đại, bây giờ ở tại vàm Quán Châu,
va có tánh kiêu, như sai đi đánh thì đi, nếu
đòi về trào mà sai thì chắc không chịu! Xin Bệ
Hạ xuống chiếu sai va, thì chắc va phụng mạng.
Thượng Ðế y lời truyền viết chiếu
điều binh rồi sai Ðại Lực quỷ vương
đi.
Khi Ðại Lực quỷ vương tới vàm Quán Châu,
đến trước dinh, Nhị Lang hiển thánh tiếp
sứ, rồi thiết hương án quì đọc chiếu
như vầy:
- Tề Thiên Ðại Thánh là Tôn Ngộ Không ở tại
động Thủy Liêm núi Hoa Quả, hội Bàn đào
nó phá rã rời, Thiên Binh Thiên Tướng bị đà xửng
vửng. Xin hiền khanh ra sức cùng nghĩa đệ giúp
công Trị bình, trẫm sẽ phong, chỉnh đốn rồi
ta ban thưởng.
Nhị Lang hiển thánh vâng lời tạ ơn; rồi nói
rằng:
- Vậy Thiên sứ về trước tâu lại, rằng
tôi phụng chỉ đề binh.
Nói rồi kêu sáu anh em: Khượng thái úy, Trương
thái úy, Giao thái úy, Lý thái úy, Quách Thân tướng quân,
Trực Kiện tướng quân, bảo đem 1200 thần
thảo đầu cho saÜn, đem cung tên khí giới theo,
đồng nổi gió, bay qua núi Hoa Quả, thấy Thiên la
Ðịa võng bủa giăng, Nhị Lang hiển thánh kêu lớn
rằng:
- Ta là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ đem
quân trợ chiến.
Lý Thiên Vương nghe báo truyền mở cửa dinh nghinh
tiếp. Nhị Lang hiển thánh vào hỏi việc chinh chiến
thể nào? Lý Thiên Vương thuật chuyện lại,
Nhị Lang hiển thánh cười rằng:
- Ðể nó giỏi nó thần thông với tôi. Các ông hãy
mở Thiên la Ðịa võng ra, hễ đánh đâu vây
đó mà thôi, xin Thác Tháp thiên vương hay là Tam Thái Tử
cầm kiến chiếu yêu đứng trên mây soi xuống,
đặng tôi coi mà theo nó, dẫu nó biến ra vật chi
cũng biết, đừng cho nó sẫy khó lòng.
Nhị Lang hiển thánh dặn các thần thảo đầu
cột chó, cầm ó lại, chờ khi hỗn chiến sẽ
thả ra. Dặn rồi dẫn sáu tướng tới
động Thủy Liêm khiêu chiến. Thấy bầy khỉ
đóng binh như rồng uống khúc, trước cửa
động dựng cờ đề chữ Tề Thiên Ðại
Thánh, Nhị Lang hiển thánh nói:
- Loài yêu hầu vô lễ, muốn địch thể với
trời!
Khi ấy tiểu hầu vào báo, Tề Thiên nai nịt cầm
thiết bảng xông ra hỏi rằng:
- Người là tiểu tướng ở đâu, dám cả
gan đến đây khiêu chiến?
Nhị Lang hiển thánh nạt rằng:
- Mi có mắt mà không ngươi, ta là cháu kêu Thượng
Ðế bằng cậu, chức Chiêu huệ tịnh hiển
vương, là Nhị Lang hiển thánh chân quân, vâng chỉ
đến bắt ngươi đây.
Tề Thiên nói:
- Ờ, ta có nghe em Thượng Ðế muốn chồng, xuống
phàm trần kết đôi với Dương quân, sinh
đặng một trai tên là Dương Tiễn sức mạnh
nhổ núi Giao Sơn, có phải là mi đó chăng? Mi là
con nít nhảy mũi ta không nỡ xuống tay, ta tha cho mi về
kêu Lý Thiên Vương ra đây cự chiến.
Nhị Lang nổi giận mắng rằng:
- Yêu hầu cà xốc, ta chém một đao.
Hai đàng đánh nhau, ba trăm hiệp sức cũng cầm
đồng. Nhị Lang hiển thánh hóa mình cao muôn trượng,
tóc đỏ, mặt xanh, nanh dài, mũi lớn, cầm
đao lớn bằng hòn núi chém bổ Tề Thiên. Tề
Thiên cũng biến hình cao muôn trượng, cầm thiết
bảng lớn như núi Thái Sơn cự với Nhị
Lang hiển thánh. Lúc nầy binh yêu hoảng vía hết chờn
vờn, tướng khỉ run en thôi cà thọt!
Chừng ấy sáu tướng của Nhị Lang hiển
thánh mới thả chó và ó ra, trên nhành ó liện, dưới
gốc chó râm, binh tướng săn nà, làm cho bầy khỉ
quăng gươm ném giáo, con vọt vô rừng, con nhảy
vào động.
Tề Thiên thật không sút chi Nhị Lang hiển thánh,
song thấy quần hầu vỡ tan, phải hiện nguyên
hình chạy về tiếp cứu! Nhị Lang hiển thánh
đuổi theo. Tề Thiên không muốn cự bởi nóng
bầy khỉ nên riết về, ai dè về gần cửa
động, bị sáu tướng của Nhị Lang đón
lại mà rằng:
- Con khỉ khốn chạy đâu?
Phần chó với ó nó vải theo, Tề Thiên túng thế,
thâu thiết bảng giắt vào mép tai, rồi biến ra
con se sẻ bay lên ngọn cây mà đậu! Sáu tướng
kiếm không đặng. Kế Nhị Lang hiển thánh chạy
đến hỏi rằng:
- Các em rượt tới đâu mà mất nó.
Sáu người nói:
- Chúng tôi vây nó tại đây, không biết nó biến
đi đâu mất!.
Nhị Lang hiển thánh trợn
mắt ngó lên, thấy trên ngọn cây có yêu khí, biết
là Tề Thiên biến ra se sẻ ấy, liền hiện
nguyên hình lại, rồi dùn mình biến ra con bù cắt,
bay lên mổ se sẻ, se sẻ sợ bay bỗng hóa ra con
cò ngà bay lên mây. Bù cắt biến ra hạc biển bay
theo. Cò ngà hoảng kinh xẹt xuống suối hóa ra con
cá. Hạc biển bay theo xuống suối không thấy con
ngà, thì chắc con ngà đã biến ra tôm cá, liền hóa
ra con séo mà xom, con cá thấy con séo xom lia xom lịa, thì
nghi là Nhị Lang biến ra, liền lội thối lại.
Con séo thấy con cá chày mà đuôi không đỏ, biết
là Tề Thiên liền chạy theo mà mổ. Con cá thấy
con séo sao chân không đỏ, biết chắc là Nhị
Lang theo mình liền lặn xuống biến ra con rắn nước,
nhảy vọt lên bờ, lủi vô cỏ rậm. Con cò
séo mổ hụt, lại thấy rắn nước nhảy
lên bờ, thì chắc là Tề Thiên hóa rắn mà trốn,
séo liền hóa ra hạc xám theo mổ rắn nước,
rắn nước chạy vọt lên triền núi hóa ra
chim nắt nước, đậu theo mé khe, Nhị Lang hiển
thánh thấy Tề Thiên biến ra vật hèn mọn, thì
không thèm hóa ra vật khác làm chi, liền hiện hình người
lấy cung mà bắn. Chim nắt nước lẹ mắt,
liền nhào xuống chân núi, hóa ra một cái miễu Thổ
Ðịa, cái miệng làm cửa, hai hàm răng làm cánh cửa,
cái lưỡi làm cốt Thổ Ðịa, cặp mắt
làm cửa sổ, còn cái đuôi không biết làm sao phải
hóa làm cột cờ dựng sau miễu! Nhị Lang hiển
thánh tới gặp miễu Thổ Ðịa sau miễu có dựng
cờ; Nhị Lang ngẫm nghĩ cười rằng:
- Con khỉ nó gạt ta
đây! Ta khi nào mắc kế, thuở nay miễu Thổ
Ðịa đời nào dựng cờ sau lưng, Tề Thiên
gạt ta chun vào để nó cắn. Ta không thèm vô cửa,
ta đánh phá cho hư gãy cánh, rồi ta sẽ vào.
Tề Thiên nghe nói nghĩ rằng:
- Nếu để nó đập phá cửa, thì gãy răng
đui mắt mình còn gì.
Nghĩ rồi vùng biến mất! Nhị Lang hiển thánh
kiếm hết sức không đặng!
Kế bốn Thái Úy, hai tướng quân chạy tới hỏi
rằng:
- Anh bắt đặng Tề Thiên chưa vậy?
Nhị Lang hiển thánh cười mà thuật chuyện vậy
vậy...Sáu người đều sững sờ! Nhị
Lang hiển thánh nói:
- Vậy các em ở đây coi chừng, để ta lên
mây kiếm nó.
Nói rồi nhảy lên nửa chừng, thấy Lý Thiên Vương
và Na Tra đang ở trên mây soi kiếng. Nhị Lang hiển
thánh nói:
- Thiên Vương có thấy yêu hầu chăng?
Lý Thiên Vương nói:
- Nó không có lên đây, ta đang soi gương mà tìm
nó.
Nhị Lang hiển thánh thuật chuyện lại, Lý Thiên
Vương nghe nói, thì cầm kiếng mà soi, rồi cười
ngất mà rằng:
-Con khỉ nó qua vàm Quán châu là chỗ Chơn quân
ở kia kìa,Chơn quân trở về bắt nó cho mau.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xách đao đi riết.
Nói về Tề Thiên gần tới vàm Quán châu, liền
giả hình làm Nhị Lang hiển thánh, đi thẳng vào
cửa miếu, Quỷ sứ ngỡ là chủ về, kéo
ra làm lễ rước vào. Tề Thiên ngồi giữa bảo
đem sổ bộ ra xem, thấy đề Lý Hổ
đem tam sanh cúng trả lễ, Trương Long cầu gia
đạo bình an, kẻ tới cầu con, người xin
cứu bệnh. Ðương xem sổ bộ, kế báo gia
gia về nữa! Quỷ sứ nghe báo chạy ra sững sờ!
Nhị Lang hiển thánh hỏi:
- Có Tề Thiên tới đây không?
Quỷ sứ thưa rằng:
- Có một gia gia hình dung như vậy, đương xem
bộ sổ ở trỏng.
Nhị Lang hiển thánh nghe nói xông vào. Tề Thiên xem thấy
hiện hình mà nói rằng:
- Nhà ngươi đừng láu táu, miễu này về Lão
Tôn rồi!
Nhị Lang hiển thánh chém một đao, Tề Thiên
đưa thiết bảng ra đỡ. Hai người
đánh với nhau ra khỏi cửa, vừa đánh vừa
chạy đến chân núi Hoa Quả! Ðã sức cầm
đồng thì chớ, lại còn sáu người trợ
chiến và thiên binh thiên tướng phủ vây.
Lúc này Ðại Lực quỷ vương về tâu... Thượng
Ðế với Quan Âm, Thái Thượng, Vương Mẫu
và các tiên còn ở lại đền bàn luận, Thượng
Ðế nghe Ðại Lực quỷ vương tâu chuyện
thì hỏi rằng:
- Nhị Lang hiển thánh đánh cả ngày sao không nghe tin
thắng bại?
Quan Âm chắp tay tâu rằng:
- Xin Bệ Hạ, ngự ra cửa Nam Thiên với Thái Thượng
đạo tổ đẻ xem thắng phụ dường
nào.
Thượng Ðế khen phải, liền ngự ra Nam Thiên
Môn, mở cửa trời xem xuống, thấy Lý Thiên Vương
cầm kiếng đứng trên mây với Na Tra. Các thiên
binh thiên tướng thì vây phủ Tề Thiên, còn Nhị
Lanh hiển thánh với sáu người em vậy đánh Tề
Thiên, mà cũng trật vuột làm không xuể! Quan âm nói
với Thái Thượng rằng:
- Tôi tiến cử Nhị Lang là thần thông quảng
đại, mà còn bắt không đặng Tề Thiên.
Thôi, để tôi giúp Nhị Lang một phép đặng bắt
nó cho rồi.
Thái Thượng hỏi:
- Bồ tát làm sao mà giúp?
Quan Âm nói:
- Tôi quăng cái Tịnh bình xuống đập đầu
con khỉ, dầu không chết cũng té nhào thì Nhị
Lang bắt đặng.
Thái Thượng nói:
- Cái tịnh bình của Bồ Tát bằng ngọc, như
đánh nhằm thì tốt, rủi có trật bể uổng!
Thôi, để tôi giúp cho.
Quan Âm hỏi:
- Ðạo tổ dùng vật chi?
Thái Thượng cởi cái vòng trong tay tả mà rằng:
- Cái vật này bằng gang, tôi tẩm luyện đã linh
lắm, nhờ đeo trong mình, nên rất quý! Nước
ngâm không ướt, lửa cháy không mềm, quăng đụng
vật chi thì nó quấn chặt cứng nên gọi là Kim
Cang trát, một tên riêng là Kim Cang sào. Năm trước,
tôi qua khỏi cửa Hàm cốc cũng nhờ nó, mới
độ nước Tây vức thành Phật nhiều lắm.
Ðể tôi quăng xuống cho mà coi.
Nói rồi quăng xuống.
Khi Tề Thiên đương mê trận, chẳng dè Kim
Cang sào rớt nhằm đầu, Tề Thiên té nhào, bộ
như chết hụt, lồm cồm chờ dậy, bầy
chó nhảy vô cắn xé, trì kéo lăng nhăng, nên Tề
Thiên nằm dưới đất la chó, vừa la vừa
chờ dậy, bị Nhị Lang hiển thánh và sáu anh em
xúm lại bắt Tề Thiên đè xuống lấy ngoéo sắt
móc eo ếch, xỏ tiên thằng trói lại hết thế
vùng vẫy.
Khi ấy Thái Thượng thâu Kim Cang sào, rồi mời Thượng
Ðế với Vương Mẫu, Quan Âm về điện
Linh Tiêu. Còn bốn Thái Úy và hai tướng quân dẫn Tề
Thiên vào trại. Các Thiên Vương và Thiên tướng
đồng khen rằng:
- Thiệt là nhờ công lao Tiểu thánh, mới bắt
đặng yêu hầu.
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Nhờ hồng phước của Thượng Ðế
và oai lực các ông, chớ tôi có tài chi mà khen ngợi.
Sáu người em bạn thưa rằng:
- Xin anh để chúng tôi dẫn yêu hầu nạp cho Thương
Ðế.
Nhị Lang hiển thánh nói:
- Các em chưa có sắc phong, không nên chầu Thượng
Ðế, để sai thần Lục đinh lục giáp giải
nó lên thiên tào, còn các em vào núi này trừ cho hết yêu
quái. Còn ta theo các vị Thiên tướng lên Ðế đình
lãnh thưởng, sẽ về phân phát cho nhau.
Sáu người đều vâng lệnh, đi xuống Hoa
Quả Sơn.
Còn Nhị Lang hiển thánh đi với Thiên Tướng
Thiên Binh về tới Thông minh điện. Thiên sứ tâu
rằng:
- Nhị Lang và Thiên Binh Thiên Tướng bắt đặng
Tề Thiên giải về.
Thượng Ðế truyền Ðại Lực quỷ vương,
Lục đinh, Lục giáp, với các tướng trời,
dẫn Tôn Ngộ Không tới đài trảm yêu mà phân
thây muôn đoạn.
Hồi 7
Ðại
Thánh trốn khỏi lò Bát quái,
Thích ca nhốt yêu núi Ngũ hành.
Khi ấy chúng thần dẫn Tề Thiên tới đài trảm
yêu, trói vào cột hàng yêu, gươm chém mẻ gươm,
giáo đâm mẻ giáo, hỏa tinh đốt không cháy,
Thiên Lôi đánh không sờn! Ðại Lực quỷ vương
và các Thiên tướng tâu lại... Thượng Ðế
phán rằng:
- Không biết yêu hầu học phép hộ thân ở đâu
mà đặng như vậy! Bây giờ liệu làm
sao?
Thái Thượng tâu rằng:
- Con khỉ ấy ăn bàn đào, uống ngự tửu,
lại nuốt hết năm bầu thuốc kim đơn
của tôi, nên nó thành mình vàng rồi làm sao giết cho chết!
Vậy xin Bệ Hạ giao nó cho tôi bỏ vô lò bát quái,
dùng lửa phép mà hầm nó, hễ chảy thuốc kim
đơn ra hết, thì nó phải ra tro.
Thượng Ðế phán rằng:
- Vậy thì giao Tề Thiên cho Lão quân khiển sát.
Thái Thượng vâng chỉ...
Rồi Thượng Ðế với Nhị Lang hiển thánh
lên điện, thưởng một trăm bông vàng, một
trăm ve ngự tửu, một trăm hột hườn
đơn và gấm thêu châu báu... Nhị Lang hiển thánh
tạ ơn, rồi lãnh phần thưởng lui về miếu
cũ.
Còn Thái Thượng về cung Ðâu Suất mở trói cho Tề
Thiên, bỏ vô lò bát quái đậy nắp lại, truyền
Lục đinh Lục giáp và một đạo sĩ coi chụm
lửa cho đủ bốn mươi chín ngày đêm.
Nguyên lò bát quái là tám cung: Cung Càn, cung Khảm, cung Cấn,
cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn, cung Ðoài, mà cung Tốn
ở trên gió. Tề Thiên nép bên cung Tốn cho khỏi lửa,
tuy không lửa thì mặc lòng, chớ cũng bị khói un
hai con mắt nâu hết, nên thành mắt lửa tròng vàng!
Ðủ bốn mươi chín ngày đạo sĩ dở nắp
ra coi, trong ý tưởng Tề Thiên tiêu rồi, còn thuốc
kim đơn chảy ra cả khối. Ai dè Tề Thiên
đương dụi con mắt, nghe tiếng dở nắp
lản cản, trên miệng lò trống lỗng! Tề
Thiên vùng nhảy thót ra, đá ngã lò rớt xuống trung
giới, sau thành Hỏa diệm sơn, làm đạo
sĩ phải đọa.
Khi thình lình Ðạo sĩ đậy nắp không kịp.
Còn Lục dinh Lục giáp a lại nắm Tề Thiên mà
kéo, Tề Thiên vụt lăn cù! Lúc ấy Tề Thiên như
cọp sút rọ; Thái Thượng nóng mũi chạy theo
níu lại, bị Tề Thiên xô ngã sấp! Rồi lấy
thiết bảng ra riết tới thiên cung loạn đả!
Chín vì sao lo đóng cửa, bốn Thiên Vương chạy
tan. Tề Thiên đánh đến chỗ nào thì tan chỗ
nấy, không ai dám cự, đánh tới Linh Tiêu bửu
điện, nhờ có bộ hạ ông Hựu Thánh chơn
quân là Vương linh Quan giữ điện, thấy Tề
Thiên loạn đả. Linh quan rút roi vàng cản lại hỏi
rằng:
- Con khỉ khốn đi đâu? Có ta đây không đặng
ngang dọc.
Tề Thiên không thèm nói lại, hươi thiết bảng
đập nhầu, Linh Quan lấy sức chống cự,
chưa biết hơn thua.
Khi ấy Hựu Thánh chơn quân cho đòi 36 vị lôi
công tới ví Tề Thiên hổn chiến. Tề Thiên
không nao núng hóa ra ba đầu sáu tay cầm thiết bảng
đánh như chong chóng. Linh Quan và 36 vị lôi công vây
ngoài xa không dám xáp lại. Thượng Ðế kinh hãi, liền
truyền chỉ sai Du Diệc linh quan và Duật Hành chơn
quân, đồng qua Tây Phương đặng thỉnh Phật
Tổ Như Lai cứu giá.
Nói về hai vị thiên sứ đằng vân đến Lôi
âm tự, cậy bốn vị Kim cang, và tám vị Bồ
tát; dẫn tới trước tòa sen, hai vị đảnh
lễ rồi, Thích Ca hỏi:
- Thượng Ðế sai nhị thánh đến đây có
việc chi?
Hai vị thuật chuyện và bạch rằng:
- Bởi có sự gấp rút như vậy, nên phải cầu
Phật Tổ từ bi cứu giá.
Thích Ca nói:
- Các vị Bồ Tát ở đây, để ta đi cứu
giá.
Dặn rồi kêu A Nan tôn giả và Ca Diếp tôn giả
đi theo, hóa hào quang bay gần tới Linh Tiêu bửu
điện, nghe khua khí giới điếc tai, ấy là 36
vị lôi công vây đánh Tề Thiên mà không đã ngứa!
Thích Ca dạy lôi công bãi chiến, rồi kêu Tề Thiên
ra hỏi. Tề Thiên hiện nguyên hình, lướt tới
hét lớn rằng:
- Ngươi là kẻ thật thà ở xứ nào tới
đây khuyên giải?
Thích Ca cười rằng:
- Ta ở nước Cực lạc hiệu Thích Ca Như Lai,
nghe đồn ngươi ngang dọc làm phản cung trời,
nên ta đến hỏi thăm cho biết, chẳng hay
ngươi sinh tại đâu, thành đạo năm nào,
vì cớ chi mà sanh loạn như vậy?
Tề Thiên nói:
- Ngươi muốn rõ cội rễ của ta, thì nghe ta
ca đây.
Ca rằng:
Thinh không trời đất nứt sanh ta,
Hoa Quả non tiên thiệt cửa nhà
Ở động Thủy Liêm tài tót chúng
Học thầy Tây Thổ phép cao xa
Luyện chước sống đời tày nhựt nguyệt,
Ra công giúp chúng khiếp yêu ma
Vì ở trung thần chê siển thổ,
Dốc lên thượng giới ngự chương tòa
Hơn thua cuộc thể lòng không chát,
Dời đổi ngôi trời chí đã sa
Có đức có tài thì có vị,
Ai thua gì nhượng nghiệp hoàng gia.
Thích Ca nghe rồi cười rằng:
- Ngươi bất quá một con khỉ thành tinh, sao dám cướp
ngôi Thượng Ðế? Vả Thượng Ðế tu tới
1550 kiếp, mỗi kiếp đều nhiều năm,
ngươi công đức bao nhiêu, phòng muốn tranh ngôi
báu? Sao ngươi không sợ chết, phải lo việc
tu hành, nếu còn làm thói dọc ngang, gặp kẻ đạo
cao thì uổng mạng!
Tề Thiên nói:
- Tu nhiều kiếp thì mặc dầu, không lẽ làm vua
hoài hủy. Lời tục nói: Ngồi lâu còn dời chỗ,
ngôi báu cũng đổi thay. Ngươi hãy bảo Thượng
Ðế dọn đồ đi mà nhường ngôi cho ta, bằng
không thì ta đánh mãi.
Thích Ca nói:
- Ngươi trừ phép trường sanh và biến hóa ra,
còn phép chi hay nửa chăng, mà dám nhường ngôi Thượng
Ðế?
Tề Thiên nói:
- Ta có phép rất nhiều, 72 phép huyền công, luyện
đặng trường sanh bất tử, và cân đẩu
vân cũng hay, nhảy một nhảy hơn 108000 dặm. Tài
phép như vậy làm vua trời không xứng hay sao?
Thích Ca nói:
- Vậy thì ta đánh cuộc với ngươi, nếu
ngươi nhảy khỏi bàn tay hữu của ta, thì ngươi
hơn, ta bảo Thượng Ðế nhượng thiên cung
cho ngươi, khỏi bề chinh chiến, còn ngươi
nhảy không khỏi bàn tay ta, thì ngươi trở về
trung giới tu ít kiếp nữa sẽ lên tranh đoạt.
Tề Thiên nghe nói cười thầm rằng:
- Thích Ca thiệt quê mùa quá! Lão Tôn nhảy một cái
108.000 dặm, sá chi bàn tay, dầu bao lớn, lại nhảy
không khỏi.
Nghĩ rồi hỏi lớn rằng:
- Ngươi làm chủ việc ấy chắc không?
Thích Ca nói:
- Chắc.
Nói rồi xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen. Tề Thiên cất
thiết bảng, rồi co giò nhảy qua! La lớn rằng:
- Ta qua khỏi rồi.
Ngó quanh quất thấy năm cây cột đỏ như
thịt, trên ngọn có mây xanh. Tề Thiên nói:
- Mình nhảy xa quá, tới đây cùng đường rồi,
thì Thích Ca bảo Thượng Ðế nhường ngôi cho
mình chắc lắm! Song mình phải làm dấu, phòng sau
đối nại với Thích Ca.
Nghĩ rồi nhổ lông hóa viết mực, đề tại
cây cột giữa, tám chữ rằng: "Tề Thiên Ðại
Thánh đáo thử nhứt du". Nghĩa là: Tề Thiên
đi chơi tới chỗ đó. Ðề rồi lại
đái xuống gốc cột thứ nhất một vũng,
rồi cân đẩu vân trở lại, té ra cũng còn
đứng trong bàn tay Thích Ca mà nói rằng:
- Ngươi là con khỉ đái vất! Ra không khỏi
bàn tay ta mà còn múa mỏ!
Tề Thiên nói:
- Ngươi có theo ta đâu mà biết, ta đi tới chân
trời, thấy năm cây cột đỏ, trên ngọn
có mây xanh, ta có làm dấu, ngươi không tin đi mà
coi?
Thích Ca nói:
- Ta chẳng đi đâu hết, ngươi hãy cúi đầu
xuống mà coi?
Tề Thiên trợn mắt dòm xuống, thấy ngón tay giữa
của Thích Ca có đề tám chữ "Tề Thiên Ðại
Thánh đảo thử nhứt du", dưới cọng
tay cái còn bọt nước đái! Tề Thiên hoảng
kinh nói rằng:
- Kỳ không, kìa! Ta đề tám chữ đó nơi cây
cột chống trời, sao lại ở nơi tay nọ!
Chắc họ có phép tiên tri, làm vậy đặng gạt
mình, ta chẳng hề tin, đi coi lại một nữa.
Nói rồi nhảy lên một cái, bị Thích Ca lật bàn
tay xuống đất, năm ngón tay Thích Ca hóa ra năm hòn
núi Ngũ Hành, chụp đè trên lưng Tề Thiên Ðại
Thánh! Các vị lôi thần và A Nan, Ca Diếp chắp tay
khen rằng:
- Hay lắm!
Thích Ca bảo A Nan, Ca Diếp từ giã ra về.
Xảy thấy Thiên Bồng Thiên Hựu chạy đến
tâu rằng:
- Xin Phật Tổ nán chờ Thượng Ðế ra mắt.
Thích Ca ngó lại thấy xe rồng tán phụng hương
báu nhạc trời, Thượng Ðế ngự ra tạ
ơn rằng:
- Nhờ Phật Tổ trừ đặng yêu hầu, xin
nán lại dự tiệc, ngỏ dùng lễ mọn tạ
ơn.
Thích Ca chắp tay tâu rằng:
- Lão tăng vâng chỉ tới trợ lực với chư
thần, có công lao bao nhiêu mà phòng cảm tạ.
Thượng Ðế truyền mời các thần tiên đồng
phó hội tạ ơn Phật Tổ, lại truyền tiên
nữ dọn yến, bàn đào, ngự tửu, cùng đồ
trân tu quý báu không biết bao nhiêu.
Giây phút các thần tiên đến trước Phật Tổ
mà bạch rằng:
- Phật Tổ từ bi đại đức trừ đặng
yêu hầu, chúng tôi cảm tạ. Xin Phật Tổ đặt
tên hội này là hội chi, theo dè cuộc nầy.
Thích Ca nói:
- Nay trên trời đã an, thì đặt An thiên hội
cũng đặng.
Các thần tiên đều khen hay! Lúc ngự yến có
tiên nữ ca vang, nhạc trời trổi chặp. Vương
Mẫu dẫn các tiên nga đến dâng bàn đào, mà bạch
rằng:
- Khi trước bị yêu hầu phá hội bàn đào.
Nay nhờ Như Lai trừ nó, lại làm hội An thiên,
tôi chẳng biết lấy chi tạ ơn, nên rửa tay
hái ít trái bàn đào đem dâng lấy thảo.
Thích Ca chắp tay tạ ơn. Vương Mẫu dạy
tiên nga ca múa.
Giây lâu có Nam Cực tiên ông cỡi hươu đến
ra mắt Thượng Ðế, rồi đến trước
mặt Phật Tổ mà bạch rằng:
- Khi trước tôi nghe Lão quân dẫn yêu hầu về
mà đốt, tưởng họa tán đà tiêu rồi,
không dè nó thoát ra được, đánh phá cung trời
làm cho kinh động Thượng Ðế, nay nhờ Phật
Tổ trị an, lại thiết An thiên hội, nên tôi
đem cỏ thoạt bông hương, kim đơn châu
bích, xin Như Lai nhiệm lễ mọn.
Thích Ca thâu lãnh. Kế Xích cước đại tiên
đến ra mắt Thượng Ðế, rồi bạch với
Phật Tổ rằng:
- Nhờ ơn Phật Tổ trị đặng yêu hầu,
tôi xin dâng hai trái giao lê, ít trái lão táo gọi là chút tạ
ơn.
Thích Ca cũng lãnh, rồi dạy A Nan, Ca Diếp thâu lễ
vật, đặng từ tạ ra lui về.
Xảy thấy Linh Quan đi tuần về báo rằng:
- Tề Thiên ló đầu ra khỏi núi!
Thích Ca nói:
- Không hề chi.
Liền lấy một tờ giấy trong túi ra có đề
sáu chữ vàng là Án ma ni bát di hồng.
Sai A Nan tôn giả đi dán trên chót núi Ngũ Hành, năm
hòn núi tự nhiên chắc cứng, như trên có câu đầu,
dưới có ràng cẳng rút vô vậy! Tuy ló đầu
ló tay ra, mà dậy không nổi. Xong rồi Thích Ca giã từ
Thượng Ðế và các thần tiên ra về, tuy vậy
mà lòng cũng từ bi, sai Thổ Ðịa và Ngũ
Phương Yết Ðế canh giữ Tề Thiên, dặn
có đói thì cho ăn sắt cục! Khát thì nấu đồng
tiêu ra cho uống! Chờ hết tội sẽ cho người
đến cứu. Dặn xong rồi về chùa Lôi Âm, bên
nước Cực Lạc.
Hồi 8
Như Lai tạo kinh truyền
Cực Lạc,
Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng an.
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về
đến Lôi Âm bửu sái, để các vị Bồ
Tát Kim cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá. Như
Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa. Các Bồ Tát Kim cang
chắp tay làm lễ hỏi:
- Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy
nghe nói đều mừng rỡ lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị A La, Yết Ðế, Bồ
Tát, Kim Cang mà nói rằng:
- Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng
năm trăm năm dưới phàm. Nay ta có một bửu
bồn, kêu là Vu lan bồn có đủ trái ngon bông lạ
cho các ngươi hưởng nhờ, ý các ngươi muốn
chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn. Phật Tổ biểu
A Nan, Ca Diếp phân phát cho đại chúng. Hết thảy
cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy. Như
Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với
chúng rằng:
- Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người
lành dữ khác nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính
trời đất, có lòng hiền, Tây ngưu hạ châu
không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ,
còn Nam Thiệm bộ châu tham dâm dục, hay đâm chém, miệng
lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân
kinh khá khuyên người lành.
Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
- Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
- Một tạng nói về việc trời, một tạng
nói về việc đất, còn một tạng thì cứu
ma độ qủy. Ba tạng cộng lại là 25 bộ
cai ra một muôn năm ngàn một trăm bốn
mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân
thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông độ, e thiên hạ
ngu dại chê bai phép Phật, chẳng biết kinh du là
chánh tông. Phải đặng một người tài phép
giỏi qua Ðông Ðộ khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng
có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
- Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người
đi thỉnh kinh.
Như Lai cả đẹp nói:
- Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có
đi thì đi trên mây, mà chớ đi cao lắm,
ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta
cho ngươi năm phép báu.
Liền dạy A Nan, Ca Diếp lấy cà sa và Cửu
huờn tích trượng đặng cho người thỉnh
kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa
luân hồi, cầm tích trượng khỏi bị hại.
Quan Âm lạy mà lãnh. Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái
vòng, nói rằng:
- Ba cái cô nhi nầy như một, cái nầy đọc chú
ba lần thì biến hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu
thì nhờ phép nầy khuyên dạy nó phải đi theo
người lấy kinh làm học trò. Như nó không chịu
thì cho nó đội cái nầy trên đầu tự nhiên
dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục
thì đọc chú cho nó nhức đầu chịu không nổi,
thì nó mới đầu vào phép ta.
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi
theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm,
lại cất kim cô, tay cầm tích trượng, xuống
khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc chân quân
Kim Ðảnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
- Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
- Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người
lấy kinh.
Ðại tiên hỏi:
- Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
- Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm
thì tới.
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây,
ngó xuống sông Lưu Sa thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
- Người phàm khó qua chỗ nầy đặng mà lấy
kinh.
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu
xa, hét lớn một tiếng nhảy lên bờ cầm bửu
trượng xốc lại đánh Quan Âm, Huệ Ngạn
cầm côn chận lại nạt rằng:
- Quái vật chớ chạy!
Hai người hỗn chiến hơn mười hiệp
chưa phân hơn thua. Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi
rằng:
- Ngươi ở đâu mà dám đến cự với
ta?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc
Tra đây, ngươi sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
- Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại
đến làm chi?
Mộc Tra nói:
- Trên kia là thầy ta đó.
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt
Quan Âm cúi đầu lạy thưa rằng:
- Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu
Ngọc Ðế làm chức Quyện Liêm đại tướng,
nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly
nên Ngọc Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống
hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có gươm
bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn
quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu không nổi,
nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt,
nay rủi phạm nhằm Bồ Tát.
Quan Âm nói:
- Ngươi đã có tội lại ăn thịt người
ta, tội càng thêm nặng. Nay ta lãnh sắc Phật Tổ
qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn
ngươi đợi đây theo người lên Tây Phương
thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi
nữa. Sau này nên công hết tội, đặng phục
chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
- Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy
người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi
ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông,
không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt
nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại
treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy
kinh bị hại rồi.
Quan âm nói:
- Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi,
đợi người lấy kinh tới sẽ có việc
dùng.
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu sa
làm họ, nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi
là Ngộ Tịnh. Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan
Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn lòng không
ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi
kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy
thấy núi cao chớn chở, hơi dữ bay lên núi mịt
mù, đi qua không được. Quan Âm tính đằng vân
mà qua núi. Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện
ra một con yêu tinh đầu heo tướng dữ tay cầm
Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm, có Mộc
Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
- Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây
nè.
Con tinh trả lời rằng:
- Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ
ta đây.
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết
hơn thua; Quan Âm ở nửa lừng bỏ bông sen xuống
cản ngang, hai người đánh không đặng nữa;
con tinh thất kinh mới hỏi:
- Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen
mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
- Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết
ta. Ta là học trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen
mà ta không biết.
Con tinh hỏi:
- Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai,
trừ tám nạn phải không?
Huệ Ngạn nói:
- Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi
thăm rằng:
- Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi
ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
- Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội.
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
- Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh
quái, mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
- Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng
(heo rừng lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ
như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là Thiên Bồng
nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu
đi lạc vào cung Nguyệt mà chọc Hằng Nga, bị
ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng
Ðế bắt tội đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày
xuống Trung Giái. Tôi đi đầu thai lạc đường
nhằm heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy.
Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và giết
bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi nầy,
ăn thịt người đỡ đói, không dè nay gặp
Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn.
Quan Âm hỏi:
- Núi nầy gọi là gì?
Con tinh nói:
- Núi nầy gọi là núi Phước Lăng, có một
cái động gọi là động Vân San; chủ động
ấy gọi là Mão Nhị Thơ, thấy tôi có nghề
võ, vời tôi tới làm người lớn trong nhà.
Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới
số gia tài về tôi, ở không ăn mãi núi lở non
mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ
Tát cứu độ mà làm ơn.
Quan Âm nói:
- Người xưa rằng: Muốn có đường
đi tới, thì đừng làm mất đường
lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải
cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm
phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại
giết người hại vật, thì một tội sinh
hai, ấy là muốn cùng đường đó.
Con tinh nói:
- Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cữ
ăn thịt người thì thấy ngáp gió, hèn chi người
ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo phép Phật
thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi
phứt cho xong thê. Thà bắt chúng đi đường,
ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội,
ngàn tội, muôn tội nà!
Quan Âm nói:
- Lòng người muốn phải, trời cũng thuận
theo. Như ngươi tu theo phép, ta cũng có món nuôi mình
được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng, lựa
phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm
mà nói rằng:
- Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy
tội trời, cầu sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ
thỉnh kinh. Nếu ngươi chịu làm đệ tử
người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước
đủ trừ tội, ta cứu ngươi nạn khỏi
tai qua.
Con tinh nói:
- Chịu theo, chịu theo!
Quan Âm thí phát (thế phát) xong rồi cứ
theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên
thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật, phải
ăn chay cữ mặn và cữ ngũ vị tân (năm món
như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu
và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới.
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng bạch bị
treo tại cửa trời. Rồng bạch thấy Quan Âm,
liền cả kêu xin cứu. Quan Âm hỏi:
- Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở
đó?
Rồng bạch nói:
- Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở biển
Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước
đền, cha tôi giận tâu với vua Trời, rằng
tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giữa
thinh không đánh ba trăm roi, và đợi ít ngày xử
trảm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn.
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn
mà lên trời, cậy Khưu Thiên Sư và Thượng
thiên sư dắt ngài vào điện. Quan Âm tâu rằng:
- Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ
thỉnh kinh, gặp rồng có tội bị treo, nên tôi
vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho
theo tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công
mà chuộc tội.
Thượng Ðế nghe tấu, truyền tướng trời
mở trói nghiệt long (rồng dữ) giao cho Bồ Tát.
Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ
ơn; Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
- Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh
đi ngang qua, sẽ hóa thành ngựa kim đỡ gót.
Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới
năm hòn núi. Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi
ấm ngàn trùng. Huệ Ngạn hỏi:
- Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật
Tổ!
Quan Âm nói:
- Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn đào,
phản thiên cung năm xưa, nên bị núi đè tại
đó.
Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn là Án
Ma Ni Bát Di Hồng. Quan Âm xem rồi than thở chẳng
xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép
công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
- Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó
thấy dưới chân núi, có thần núi và Thổ Ðịa
canh giữ. Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt
đến trước mặt Ðại Thánh. Quan Âm thấy
Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng
nhóp nhép lia mà cục cựa không đặng. Ngài mới
hỏi rằng:
- Họ Tôn có biết ta chăng?
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật
đầu mà nói lớn:
- Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ
Ðà, cả làn cả thương, cứu khổ cứu nạn,
là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm!
Tôi nằm đây coi một bữa bằng một năm,
không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu
mà ghé đây?
Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ
thỉnh kinh, đi ngang qua đây nên ghé mà thăm đó.
Ðại Thánh nói:
- Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi nầy.
Gần năm trăm năm, cựa mình không đặng.
Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một
phen.
Quan Âm nói:
- Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu
ngươi ra, quen thói yêu càng không nên lắm.
Ðại Thánh nói:
- Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu
độ, tôi chịu đi tu.
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại
Thánh rằng:
- Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ
cho, ngươi đã quyết tu hành, đợi ta xuống
Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn
ghé mà cứu, thì ngươi theo làm đệ tử, giữ
phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về,
cũng thành chánh quả.
Ðại Thánh nói:
- Tôi chịu, tôi chịu!.
Quan Âm nói:
- Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh
cho.
Ðại Thánh nói:
- Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa.
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
- Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót
chữ Ngộ. Nay ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa,
trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm.
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo
Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông độ. Ngày kia
đến đất Trường An là nước Ðại
Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa
ghẻ lác mà đi lộn với người và tới chợ
Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay
vào miễu Thổ Ðịa. Ông Ðịa hết hồn, binh
ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng, ra
làm lễ rước vào. Thổ Ðịa đi báo với
Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt
mà rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước
trễ.
Quan Âm nói:
- Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc
Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh kinh, ta ngụ nhờ
trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh
kinh, ta sẽ từ giã. Các thần ở đâu về
đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đỡ ngoài Thành
Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình
lớn trong tỉnh sở tại). Còn hai thầy trò giả
dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa
đi dọ tin.
Source: chuahaiduc.org