Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17871)
Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

Có người cha vĩ đại cao minhTrần Thái Tông và có người con thiên tài xuất chúng là Trần Nhân Tông, thế nên tên tuổi Trần Thánh Tông (tự là Vô Nhị thượng nhân) dường như khuất chìm. Hơn nữa, dù viết nhiều, ít nhất là năm tập sách, chẳng tác phẩm nào còn truyền lại, ngoài 16 bài thơ!
Nhưng thử chạm vào thơ ấy đi, thơ của Vô Nhị thượng nhân, ta sẽ gặp một cơn lốc. Ta bay hoặc rơi, lặng người hoặc ca hát, trầm tư bất động hoặc ngất ngây nhảy múa. Ta muốn làm trẻ thơ, muốn cởi trần, muốn vào hang trống nghe gió reo, đến đầm lạnh nhìn trăng sáng. Để rồi ta lại trở về, ngồi dưới chân nhà thơ lớn, lắng lòng để lắng nghe, để có thể nghe ra tiếng đàn không điệu của Vô Nhị thượng nhân.
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp như muốn ca hát mặc cơn đau xé từng hơi thở. Chính lúac ấy, trước phút lâm chung, Vô Nhị thượng nhân viết bài thơ tuyệt bút:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
(Sống như mặc áo,
Chết như cởi quần.
Xưa nay vô cùng,
Không đường nào khác).
Sống là gì? Có biết bao triết lí về đời sống. Để làm gì và chẳng để làm gì. Có lý và vô lý. Có nghĩa và vô nghĩa. Lạc quanbi quan. Cam chịunổi loạn.
Nhưng Vô Nhị thượng nhân nói: Sống như mặc áo. Tại sao áo? Tại sao mặc áo?
Áo thì có đủ loại, đủ kiểu, đủ mùa, đủ màu sắc…
Bắt đầu là hình hài. Áo là hình hài, là da tóc, mặt mũi, tứ chi. Ta mang hình hài ấy và tiếng khóc mà vào đời. Cái áo đầu tiên của ta đấy.
Tiếng khóc cũng là cái áo mà ta mang ta mặc. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra (Ôn Như Hầu). Và cái áo của tiếng khóc ấy đâu chỉ mặc một lần. Bao nhiêu lần, nhớ nổi không?
Và khi bắt đầu biết cười là có thêm một cái áo khác. Rồi tự nụ cười hồn nhiên đến những nụ cười sau này lại có vô số áo của nụ cười. Ta mang cái áo này đi khắp nơi, gặp đủ hạng người. Cái cười càng ngày càng lạ. Cười vậy mà không phải vậy. Có cái cười của tình yêu và có cái cười của hận thù. Có cái cười của sát nhân và có cái cười của cứu độ. Tất nhiên là không kể xiết: xu mị, lừa phỉnh, cay đắng, giả dại, xin xỏ, dụ hoặc... là áo cả thôi. Hãy hỏi xem nó che đậy cái gì?
 
Ta mang một cái tên. Danh tính. Đó cũng là áo. Hay nói như Tagore, cái tên là ngục tù: “Người tôi giam trong tên tôi đang khóc than, tên tôi là ngục tù ấy” (He whom I enclose with my name is weeping in this dungeon). Bởi vì cái áo của hư danh không cho thấy con người thực. Bản chất của áo bao giờ cũng là che đậy, kể cả khi nó muốn phô bày một cái gì đó. Phô bày cũng là một hình thức khác của che đậy.
Ta có một cái xe, một địa vị, một mảnh bằng, một tổ chức, một cơ nghiệp, một bảng hiệu, một cờ xí... Đó là áo và áo và áo. Chứ là gì khác?
Với Trần Thánh Tông, vua cũng là một cái áo. Nếu không thì Người đâu cần nói: “Từ khi bé bỏng đã vào thiền” (Tự tòng quán giác nhập thiền lưu). Cái áo đó Người không hề muốn giữ suốt đời.
Còn sống thì không thể nào thôi mặc áo.
Vì vậy, Vô Nhị thượng nhân mới bảo: Chết như cởi quần.
Cởi quần.
Cởi quần chỉ rõ trạng thái hoàn toàn trần truồng, cái hình hài nguyên sơ của mọi con người, cái hình hài sắp sửa trở về với vô hình, với hư vô.
Từ trần truồng trở về với trần truồng, như nhà thơ Issa nói trong một bài haiku:
Từ bồn tắm đến bồn tắm
Toàn thể chuyến đi dài
Chỉ thế mà thôi!
Trần truồng được tắm khi sinh và trần truồng được tắm khi chết. Chỉ là sự di chuyển giữa hai bồn tắm, hai tình trạng trần truồng. Chỉ thế mà thôi. Từ kẻ ăn mày rách rưới nhất đến những vĩ nhân, thánh hiền danh tiếng nhất cũng đều đi như vậy.
Từ xưa đến nay đều vậy. Xưa nay vô cùng. Từ Diogenes trần truồng sống trong một thùng rượu đến Đại đế Alexander tung áo bào phủ khắp thế gian. Dẫu muốn hay không, họ đều chết. Như đã giống hệt lúc mới ra đời. Chỉ có di chuyển giữa hai lần đó là khác.
Thử tưởng tượng họ nói gì với nhau sau khi chết:
- Alexander: Đến bây giờ mà ông vẫn còn trần truồng ư?
- Diogenes: Phải. Đến bây giờ ông mới biết trần truồng ư? Thế áo bào của ông đâu rồi?
Áo bào đâu rồi? Và mọi loại quần áo đâu rồi sau khi chết?
Chết như cởi quần. Thoát khố. Một lời đơn giản tột cùng. Mà rành rành như ta có thể nhìn thấy ngón tay mình. Một lời mà nhìn thấy xưa nay.
Không đường nào khác. Ta đi vào cuộc sống và mặc vào những cái áo. Như vậy, như vậy... Ta vĩnh biệt cuộc sống và trả lại mọi áo quần. Dù muốn hay không muốn.
Thế nên Vô Nhị thượng nhân nói: không đường nào khác.
Chỉ có cách di chuyển của ta là khác nhau. Còn đường đi thì bao giờ cũng thế. Đường đi không có đúng sai. Chỉ người đi là khác.
Sau khi đọc xong bài thơ (hay bài kệ), Thượng nhân hét lên :
Bát tự đả khai phân phó liễu
Cánh vô dư sự khả trình quân
(Mở toang tám chữ mà trao,
Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh).
Người đứng hầu bên Thượng nhân lúc đó chính là Nhân Tông.
“Bát tự” có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu ám chỉ “Tuyết Sơn bát tự” thì tám chữ đó là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Trong kinh Niết Bàn, Bồ tát Tuyết Sơn để nghe tám chữ đó phải hi sinh cho quỷ La Sát ăn thịt.
Nhưng trong văn cảnh này thì “Bát tự” là, hay có thể là tám chữ mở đầu bài thơ: “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố” (Sống như mặc áo, chết như cởi quần).
 

Dung nạp những cách hiểu này càng làm cho bài thơ Sinh Tử của Vô Nhị thượng nhân bao la hơn. Cái đón đợi của người đọc vì thế sâu xa hơn, niềm hân thưởng vì thế lớn hơn.
 
Đọc những vần thơ bay bổng của Thượng nhân, buồn rằng lịch sử đã để mất các tác phẩm khác của người: Di hậu lục, Cơ cầu lục, Thiền tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá minh...
Những tiêu đề đó có phải chăng là: “chiếc đàn không điệu” (bất điệu cầm) của Vô Nhị thượng nhân:
Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm
Nhàn môn vô sự khả quan tâm
Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa thử âm.
(Đàn không điệu gảy nguyên ngày
Cửa nhàn không chút mảy may bận lòng
Ai hay khúc điệu bên trong
Có chăng chỉ gió rừng thông họa đàn).
Đó cũng là thơ Thượng nhân. Là thơ của “khúc điệu bên trong ”, cái tâm thanh tịnh muôn đời cảm ứng với thiên nhiên ca hát.
Đó là thơ của một cái khảy tay nhưng đủ phá cả vạn trùng núi non :
Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san
Giá cá công phu dã thị nhàn
(Khảy tay phá vạn trùng san
Công phu thế ấy vẫn nhàn làm sao!).
Đó là thơ của cực động và cực tĩnh:
Động như không cốc phong xao hưởng
TĨnh nhược hàn đàm nguyệt mãn minh.
(Động như hang trống vang lừng gió
Tĩnh tựa đầm hoang chói rạng trăng).
Chạm vào những vần thơ trên của Thượng nhân lại càng rung động hơn trước những lời tuyệt bút tráng lệ của Người.
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Sống ư? Chết ư? Áo ư? Quần ư? Tuyệt!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1758)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1612)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1490)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1263)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1399)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1351)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1394)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1356)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1312)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1527)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1601)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1656)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1537)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1504)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1279)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1436)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1398)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1474)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1512)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1587)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1434)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1563)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1459)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1411)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1502)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1410)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1587)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1856)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1545)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1842)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1424)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1367)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1568)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1425)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1509)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1666)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1867)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1899)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1714)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1905)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1587)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1532)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2072)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1670)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1594)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1528)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1519)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1598)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant