Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17869)
Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

Có người cha vĩ đại cao minhTrần Thái Tông và có người con thiên tài xuất chúng là Trần Nhân Tông, thế nên tên tuổi Trần Thánh Tông (tự là Vô Nhị thượng nhân) dường như khuất chìm. Hơn nữa, dù viết nhiều, ít nhất là năm tập sách, chẳng tác phẩm nào còn truyền lại, ngoài 16 bài thơ!
Nhưng thử chạm vào thơ ấy đi, thơ của Vô Nhị thượng nhân, ta sẽ gặp một cơn lốc. Ta bay hoặc rơi, lặng người hoặc ca hát, trầm tư bất động hoặc ngất ngây nhảy múa. Ta muốn làm trẻ thơ, muốn cởi trần, muốn vào hang trống nghe gió reo, đến đầm lạnh nhìn trăng sáng. Để rồi ta lại trở về, ngồi dưới chân nhà thơ lớn, lắng lòng để lắng nghe, để có thể nghe ra tiếng đàn không điệu của Vô Nhị thượng nhân.
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp như muốn ca hát mặc cơn đau xé từng hơi thở. Chính lúac ấy, trước phút lâm chung, Vô Nhị thượng nhân viết bài thơ tuyệt bút:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
(Sống như mặc áo,
Chết như cởi quần.
Xưa nay vô cùng,
Không đường nào khác).
Sống là gì? Có biết bao triết lí về đời sống. Để làm gì và chẳng để làm gì. Có lý và vô lý. Có nghĩa và vô nghĩa. Lạc quanbi quan. Cam chịunổi loạn.
Nhưng Vô Nhị thượng nhân nói: Sống như mặc áo. Tại sao áo? Tại sao mặc áo?
Áo thì có đủ loại, đủ kiểu, đủ mùa, đủ màu sắc…
Bắt đầu là hình hài. Áo là hình hài, là da tóc, mặt mũi, tứ chi. Ta mang hình hài ấy và tiếng khóc mà vào đời. Cái áo đầu tiên của ta đấy.
Tiếng khóc cũng là cái áo mà ta mang ta mặc. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra (Ôn Như Hầu). Và cái áo của tiếng khóc ấy đâu chỉ mặc một lần. Bao nhiêu lần, nhớ nổi không?
Và khi bắt đầu biết cười là có thêm một cái áo khác. Rồi tự nụ cười hồn nhiên đến những nụ cười sau này lại có vô số áo của nụ cười. Ta mang cái áo này đi khắp nơi, gặp đủ hạng người. Cái cười càng ngày càng lạ. Cười vậy mà không phải vậy. Có cái cười của tình yêu và có cái cười của hận thù. Có cái cười của sát nhân và có cái cười của cứu độ. Tất nhiên là không kể xiết: xu mị, lừa phỉnh, cay đắng, giả dại, xin xỏ, dụ hoặc... là áo cả thôi. Hãy hỏi xem nó che đậy cái gì?
 
Ta mang một cái tên. Danh tính. Đó cũng là áo. Hay nói như Tagore, cái tên là ngục tù: “Người tôi giam trong tên tôi đang khóc than, tên tôi là ngục tù ấy” (He whom I enclose with my name is weeping in this dungeon). Bởi vì cái áo của hư danh không cho thấy con người thực. Bản chất của áo bao giờ cũng là che đậy, kể cả khi nó muốn phô bày một cái gì đó. Phô bày cũng là một hình thức khác của che đậy.
Ta có một cái xe, một địa vị, một mảnh bằng, một tổ chức, một cơ nghiệp, một bảng hiệu, một cờ xí... Đó là áo và áo và áo. Chứ là gì khác?
Với Trần Thánh Tông, vua cũng là một cái áo. Nếu không thì Người đâu cần nói: “Từ khi bé bỏng đã vào thiền” (Tự tòng quán giác nhập thiền lưu). Cái áo đó Người không hề muốn giữ suốt đời.
Còn sống thì không thể nào thôi mặc áo.
Vì vậy, Vô Nhị thượng nhân mới bảo: Chết như cởi quần.
Cởi quần.
Cởi quần chỉ rõ trạng thái hoàn toàn trần truồng, cái hình hài nguyên sơ của mọi con người, cái hình hài sắp sửa trở về với vô hình, với hư vô.
Từ trần truồng trở về với trần truồng, như nhà thơ Issa nói trong một bài haiku:
Từ bồn tắm đến bồn tắm
Toàn thể chuyến đi dài
Chỉ thế mà thôi!
Trần truồng được tắm khi sinh và trần truồng được tắm khi chết. Chỉ là sự di chuyển giữa hai bồn tắm, hai tình trạng trần truồng. Chỉ thế mà thôi. Từ kẻ ăn mày rách rưới nhất đến những vĩ nhân, thánh hiền danh tiếng nhất cũng đều đi như vậy.
Từ xưa đến nay đều vậy. Xưa nay vô cùng. Từ Diogenes trần truồng sống trong một thùng rượu đến Đại đế Alexander tung áo bào phủ khắp thế gian. Dẫu muốn hay không, họ đều chết. Như đã giống hệt lúc mới ra đời. Chỉ có di chuyển giữa hai lần đó là khác.
Thử tưởng tượng họ nói gì với nhau sau khi chết:
- Alexander: Đến bây giờ mà ông vẫn còn trần truồng ư?
- Diogenes: Phải. Đến bây giờ ông mới biết trần truồng ư? Thế áo bào của ông đâu rồi?
Áo bào đâu rồi? Và mọi loại quần áo đâu rồi sau khi chết?
Chết như cởi quần. Thoát khố. Một lời đơn giản tột cùng. Mà rành rành như ta có thể nhìn thấy ngón tay mình. Một lời mà nhìn thấy xưa nay.
Không đường nào khác. Ta đi vào cuộc sống và mặc vào những cái áo. Như vậy, như vậy... Ta vĩnh biệt cuộc sống và trả lại mọi áo quần. Dù muốn hay không muốn.
Thế nên Vô Nhị thượng nhân nói: không đường nào khác.
Chỉ có cách di chuyển của ta là khác nhau. Còn đường đi thì bao giờ cũng thế. Đường đi không có đúng sai. Chỉ người đi là khác.
Sau khi đọc xong bài thơ (hay bài kệ), Thượng nhân hét lên :
Bát tự đả khai phân phó liễu
Cánh vô dư sự khả trình quân
(Mở toang tám chữ mà trao,
Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh).
Người đứng hầu bên Thượng nhân lúc đó chính là Nhân Tông.
“Bát tự” có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu ám chỉ “Tuyết Sơn bát tự” thì tám chữ đó là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Trong kinh Niết Bàn, Bồ tát Tuyết Sơn để nghe tám chữ đó phải hi sinh cho quỷ La Sát ăn thịt.
Nhưng trong văn cảnh này thì “Bát tự” là, hay có thể là tám chữ mở đầu bài thơ: “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố” (Sống như mặc áo, chết như cởi quần).
 

Dung nạp những cách hiểu này càng làm cho bài thơ Sinh Tử của Vô Nhị thượng nhân bao la hơn. Cái đón đợi của người đọc vì thế sâu xa hơn, niềm hân thưởng vì thế lớn hơn.
 
Đọc những vần thơ bay bổng của Thượng nhân, buồn rằng lịch sử đã để mất các tác phẩm khác của người: Di hậu lục, Cơ cầu lục, Thiền tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá minh...
Những tiêu đề đó có phải chăng là: “chiếc đàn không điệu” (bất điệu cầm) của Vô Nhị thượng nhân:
Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm
Nhàn môn vô sự khả quan tâm
Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa thử âm.
(Đàn không điệu gảy nguyên ngày
Cửa nhàn không chút mảy may bận lòng
Ai hay khúc điệu bên trong
Có chăng chỉ gió rừng thông họa đàn).
Đó cũng là thơ Thượng nhân. Là thơ của “khúc điệu bên trong ”, cái tâm thanh tịnh muôn đời cảm ứng với thiên nhiên ca hát.
Đó là thơ của một cái khảy tay nhưng đủ phá cả vạn trùng núi non :
Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san
Giá cá công phu dã thị nhàn
(Khảy tay phá vạn trùng san
Công phu thế ấy vẫn nhàn làm sao!).
Đó là thơ của cực động và cực tĩnh:
Động như không cốc phong xao hưởng
TĨnh nhược hàn đàm nguyệt mãn minh.
(Động như hang trống vang lừng gió
Tĩnh tựa đầm hoang chói rạng trăng).
Chạm vào những vần thơ trên của Thượng nhân lại càng rung động hơn trước những lời tuyệt bút tráng lệ của Người.
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Sống ư? Chết ư? Áo ư? Quần ư? Tuyệt!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 767)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 738)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 751)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 747)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 649)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 834)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1225)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1395)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1118)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1456)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 924)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 823)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 924)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 943)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 913)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 940)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1072)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 891)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1036)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1040)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 963)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 987)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 910)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1069)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1015)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 937)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1050)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 972)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 902)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1006)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 944)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1194)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 972)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1055)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1222)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1659)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1224)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1300)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1161)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1021)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 985)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1016)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 865)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1537)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1414)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1390)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1332)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1430)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1383)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1528)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant