Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

21 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17864)
Vần thơ sinh tử của Vô Nhị thượng nhân

Có người cha vĩ đại cao minhTrần Thái Tông và có người con thiên tài xuất chúng là Trần Nhân Tông, thế nên tên tuổi Trần Thánh Tông (tự là Vô Nhị thượng nhân) dường như khuất chìm. Hơn nữa, dù viết nhiều, ít nhất là năm tập sách, chẳng tác phẩm nào còn truyền lại, ngoài 16 bài thơ!
Nhưng thử chạm vào thơ ấy đi, thơ của Vô Nhị thượng nhân, ta sẽ gặp một cơn lốc. Ta bay hoặc rơi, lặng người hoặc ca hát, trầm tư bất động hoặc ngất ngây nhảy múa. Ta muốn làm trẻ thơ, muốn cởi trần, muốn vào hang trống nghe gió reo, đến đầm lạnh nhìn trăng sáng. Để rồi ta lại trở về, ngồi dưới chân nhà thơ lớn, lắng lòng để lắng nghe, để có thể nghe ra tiếng đàn không điệu của Vô Nhị thượng nhân.
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp như muốn ca hát mặc cơn đau xé từng hơi thở. Chính lúac ấy, trước phút lâm chung, Vô Nhị thượng nhân viết bài thơ tuyệt bút:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
(Sống như mặc áo,
Chết như cởi quần.
Xưa nay vô cùng,
Không đường nào khác).
Sống là gì? Có biết bao triết lí về đời sống. Để làm gì và chẳng để làm gì. Có lý và vô lý. Có nghĩa và vô nghĩa. Lạc quanbi quan. Cam chịunổi loạn.
Nhưng Vô Nhị thượng nhân nói: Sống như mặc áo. Tại sao áo? Tại sao mặc áo?
Áo thì có đủ loại, đủ kiểu, đủ mùa, đủ màu sắc…
Bắt đầu là hình hài. Áo là hình hài, là da tóc, mặt mũi, tứ chi. Ta mang hình hài ấy và tiếng khóc mà vào đời. Cái áo đầu tiên của ta đấy.
Tiếng khóc cũng là cái áo mà ta mang ta mặc. Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra (Ôn Như Hầu). Và cái áo của tiếng khóc ấy đâu chỉ mặc một lần. Bao nhiêu lần, nhớ nổi không?
Và khi bắt đầu biết cười là có thêm một cái áo khác. Rồi tự nụ cười hồn nhiên đến những nụ cười sau này lại có vô số áo của nụ cười. Ta mang cái áo này đi khắp nơi, gặp đủ hạng người. Cái cười càng ngày càng lạ. Cười vậy mà không phải vậy. Có cái cười của tình yêu và có cái cười của hận thù. Có cái cười của sát nhân và có cái cười của cứu độ. Tất nhiên là không kể xiết: xu mị, lừa phỉnh, cay đắng, giả dại, xin xỏ, dụ hoặc... là áo cả thôi. Hãy hỏi xem nó che đậy cái gì?
 
Ta mang một cái tên. Danh tính. Đó cũng là áo. Hay nói như Tagore, cái tên là ngục tù: “Người tôi giam trong tên tôi đang khóc than, tên tôi là ngục tù ấy” (He whom I enclose with my name is weeping in this dungeon). Bởi vì cái áo của hư danh không cho thấy con người thực. Bản chất của áo bao giờ cũng là che đậy, kể cả khi nó muốn phô bày một cái gì đó. Phô bày cũng là một hình thức khác của che đậy.
Ta có một cái xe, một địa vị, một mảnh bằng, một tổ chức, một cơ nghiệp, một bảng hiệu, một cờ xí... Đó là áo và áo và áo. Chứ là gì khác?
Với Trần Thánh Tông, vua cũng là một cái áo. Nếu không thì Người đâu cần nói: “Từ khi bé bỏng đã vào thiền” (Tự tòng quán giác nhập thiền lưu). Cái áo đó Người không hề muốn giữ suốt đời.
Còn sống thì không thể nào thôi mặc áo.
Vì vậy, Vô Nhị thượng nhân mới bảo: Chết như cởi quần.
Cởi quần.
Cởi quần chỉ rõ trạng thái hoàn toàn trần truồng, cái hình hài nguyên sơ của mọi con người, cái hình hài sắp sửa trở về với vô hình, với hư vô.
Từ trần truồng trở về với trần truồng, như nhà thơ Issa nói trong một bài haiku:
Từ bồn tắm đến bồn tắm
Toàn thể chuyến đi dài
Chỉ thế mà thôi!
Trần truồng được tắm khi sinh và trần truồng được tắm khi chết. Chỉ là sự di chuyển giữa hai bồn tắm, hai tình trạng trần truồng. Chỉ thế mà thôi. Từ kẻ ăn mày rách rưới nhất đến những vĩ nhân, thánh hiền danh tiếng nhất cũng đều đi như vậy.
Từ xưa đến nay đều vậy. Xưa nay vô cùng. Từ Diogenes trần truồng sống trong một thùng rượu đến Đại đế Alexander tung áo bào phủ khắp thế gian. Dẫu muốn hay không, họ đều chết. Như đã giống hệt lúc mới ra đời. Chỉ có di chuyển giữa hai lần đó là khác.
Thử tưởng tượng họ nói gì với nhau sau khi chết:
- Alexander: Đến bây giờ mà ông vẫn còn trần truồng ư?
- Diogenes: Phải. Đến bây giờ ông mới biết trần truồng ư? Thế áo bào của ông đâu rồi?
Áo bào đâu rồi? Và mọi loại quần áo đâu rồi sau khi chết?
Chết như cởi quần. Thoát khố. Một lời đơn giản tột cùng. Mà rành rành như ta có thể nhìn thấy ngón tay mình. Một lời mà nhìn thấy xưa nay.
Không đường nào khác. Ta đi vào cuộc sống và mặc vào những cái áo. Như vậy, như vậy... Ta vĩnh biệt cuộc sống và trả lại mọi áo quần. Dù muốn hay không muốn.
Thế nên Vô Nhị thượng nhân nói: không đường nào khác.
Chỉ có cách di chuyển của ta là khác nhau. Còn đường đi thì bao giờ cũng thế. Đường đi không có đúng sai. Chỉ người đi là khác.
Sau khi đọc xong bài thơ (hay bài kệ), Thượng nhân hét lên :
Bát tự đả khai phân phó liễu
Cánh vô dư sự khả trình quân
(Mở toang tám chữ mà trao,
Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh).
Người đứng hầu bên Thượng nhân lúc đó chính là Nhân Tông.
“Bát tự” có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu ám chỉ “Tuyết Sơn bát tự” thì tám chữ đó là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (Sinh diệt nếu diệt rồi, thì tịch diệt là vui). Trong kinh Niết Bàn, Bồ tát Tuyết Sơn để nghe tám chữ đó phải hi sinh cho quỷ La Sát ăn thịt.
Nhưng trong văn cảnh này thì “Bát tự” là, hay có thể là tám chữ mở đầu bài thơ: “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố” (Sống như mặc áo, chết như cởi quần).
 

Dung nạp những cách hiểu này càng làm cho bài thơ Sinh Tử của Vô Nhị thượng nhân bao la hơn. Cái đón đợi của người đọc vì thế sâu xa hơn, niềm hân thưởng vì thế lớn hơn.
 
Đọc những vần thơ bay bổng của Thượng nhân, buồn rằng lịch sử đã để mất các tác phẩm khác của người: Di hậu lục, Cơ cầu lục, Thiền tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá minh...
Những tiêu đề đó có phải chăng là: “chiếc đàn không điệu” (bất điệu cầm) của Vô Nhị thượng nhân:
Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm
Nhàn môn vô sự khả quan tâm
Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa thử âm.
(Đàn không điệu gảy nguyên ngày
Cửa nhàn không chút mảy may bận lòng
Ai hay khúc điệu bên trong
Có chăng chỉ gió rừng thông họa đàn).
Đó cũng là thơ Thượng nhân. Là thơ của “khúc điệu bên trong ”, cái tâm thanh tịnh muôn đời cảm ứng với thiên nhiên ca hát.
Đó là thơ của một cái khảy tay nhưng đủ phá cả vạn trùng núi non :
Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san
Giá cá công phu dã thị nhàn
(Khảy tay phá vạn trùng san
Công phu thế ấy vẫn nhàn làm sao!).
Đó là thơ của cực động và cực tĩnh:
Động như không cốc phong xao hưởng
TĨnh nhược hàn đàm nguyệt mãn minh.
(Động như hang trống vang lừng gió
Tĩnh tựa đầm hoang chói rạng trăng).
Chạm vào những vần thơ trên của Thượng nhân lại càng rung động hơn trước những lời tuyệt bút tráng lệ của Người.
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Sống ư? Chết ư? Áo ư? Quần ư? Tuyệt!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1834)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1911)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1782)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2151)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2129)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2267)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1757)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2079)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1785)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1767)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1937)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1942)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1594)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1773)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2117)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1860)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2461)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1766)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1769)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1730)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2179)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1996)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2140)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1674)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2287)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1621)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1917)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1813)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1868)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1705)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2452)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2168)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2105)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1915)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2296)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1878)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1954)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2201)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1721)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1980)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1995)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2203)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1975)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1806)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1786)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1806)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1915)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2214)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1751)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1716)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant