Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Thực Sung Mãn Tại Trường Hạ Phật Học Viện Quốc Tế 2011

06 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12488)
Pháp Thực Sung Mãn Tại Trường Hạ Phật Học Viện Quốc Tế 2011
Mùa phượng tím tháng sáu rực rỡ khắp nơi, tô điểm sắc điệp vàng và những đóa hải đường, uất kim hương đủ mầu, đã khiến bức tranh mùa hạ linh động như bước chân sáo của bầy di điểu gọi nhau tìm về phương hẹn.

Dưới những mái cong của một ngôi chùa tại thành phố North Hill, miền Nam California cũng đang rộn rã như thế. Đó là trường hạ tại Phật Học Viện Quốc Tế, nơi 146 Chư Tôn Đức Tăng Ni và hàng trăm đồng hương, Phật tử vân tập về để cùng làm sống lại tinh thần An Cư Kiết Hạ như Đức Thế Tôn đã chế và khuyến tần các Tỳ Kheo thực hiện khi xưa.

Chương trình thời khóa 10 ngày an cư được sắp xếp vô cùng khít khao nhưng thật hài hòa cho sự lễ bái, thọ giới, tụng kinh, ăn uống, ngủ nghỉ ..v..v Đặc biệt, những thời khóa Chư Tôn Đức thuyết giảng tại Tổ đường và tại chánh điện cho Phật tử, quả là vô cùng sung mãn. Mỗi ngày giới xuất gia có 2 buổi giảng. Sáng, bắt đầu từ 8:45 đến 10:30; Chiều, sau thời kinh Thủy SámMông Sơn Thí Thực, giờ giảng pháp bắt đầu lúc 7:30 tới 9:00. Phật tử thì mỗi tối đều được thính pháp và pháp đàm từ 7:30 tối tới 9:00.

thebuddhismretreat2011__5_

Ai đến trường hạ vào những giờ thuyết pháp đều cảm thấy nức lònghình ảnh các học trò tu sĩ luôn hào hứng, chăm chỉ vào lớp trước giờ quý Ôn giảng sư tới. Đã nhiều lần, Ôn Thắng Hoan và Ôn Tín Nghĩa tán thán: “ Chu choa, nửa tiếng nữa mới tới giờ mà học trò đã đến đầy lớp rồi ư?” Có hôm, trong khi chờ giờ học, bỗng nghe nho nhỏ tiếng rao: “Trà đá đây!”, tưởng lạc về bến đò Mỹ Thuận! Nhưng không, đúng là tiếng rao “ Trà đá đây” nhưng tiếng rao ấy đang ở Tổ đường PHVQT, và người rao là Đại Đức Thích Thiện Đạo, phó trụ trì chùa Phật Tổ, Long Beach. Chắc thầy cũng cảm động khi thấy học trò vào lớp sớm, nên thầy lẳng lặng châm một bình trà thơm, chu đáo xếp sẵn những ly giấy nhỏ, rồi ngồi ở hàng ghế cuối, thỉnh thoảng lại cất tiếng “Trà đá đây!”. Có lớp học nào, ở bất cứ trường lớp nào trên thế giới mà lại thân thương đến thế không?

Những buổi thuyết giảng dành cho giới tu sĩ là những đề tài thiết thực, lợi ích và đầy hào hứng! Ngay buổi đầu tiên, Ôn Thắng Hoan đã dẫn đám học trò vào thế giới Duy Thức Học khi liên kết nhiệm vụ của mỗi thức để uyển chuyển tài tình, giảng về đề tài “Giá trị nhận thức theo Phật Giáo”, nên Duy Thức Học mênh mông bể sở lại trở thành thích thú, dễ hiểu khi giọng Ôn sang sảng nhân cách hóa chúng “ Anh chàng Manas-thức hay thức thứ sáu, là trung tâm hoạt động của tâm, ý, thức, là một anh chàng ưa thắc mắc. Nhận chủng tử nào anh ta cũng suy tư, phân biệt. Trái lại, cái kho hàng Alaya, hay là thức thứ tám thì nhẫn nại chứa đủ mọi thứ mà chẳng hề than phiền bao giờ!”.

Xen giữa những lời giảng linh hoạt, vui tươi, đôi lúc Ôn trầm ngâm nhắn nhủ: “Do hoàn cảnh lịch sử, Phật Giáo Việt Nam không còn nằm trong phạm vi hình chữ S nữa, mà nay đang trải rộng khắp năm châu bốn biển. Do đó trách nhiệm các Tăng Ni sinh trẻ rất quan trọng. Quý vị phải cầu tiến. Phải học. Học. Học. Phải luôn mở mang trí tuệ để trở thành những nhà truyền giáo trong tương lai. Và phải nhớ rằng, nhà truyền giáo, khi nói về quan điểm mình thì phải có biện chứng mới giá trị. Nếu chỉ nói khơi khơi, nói trong sách vở thì người nghe sẽ đánh giá được ngay sở học của mình tới đâu!”

thebuddhismretreat2011__6_

Cùng với niềm ưu tư đó, H.T. Tổng Thư Ký, thầy Nguyên Siêu khi giảng về đề tài “Sự hình thành GHPGVNTN” đã nhìn lên bàn Tổ, nơi có di ảnh của bốn vị Tăng Thống đã khai sinh và gìn giữ GHPGVNTN. Đó là:

Đức Đệ Nhất Tăng Thống: H.T. Thích Tịnh Khiết
Đức Đệ Nhị Tăng Thống: H.T. Thích Giác Nhiên
Đức Đệ Tam Tăng Thống: H.T. Thích Đôn Hậu
Đức Đệ Tứ Tăng Thống: H.T. Thích Huyền Quang.

Cả bốn vị cha già đã một đời tận tụy, hy sinhĐạo Pháp, đã xây đắp ngôi nhà GHPGVNTN cho huynh đệ, cho các con về nương tựa. Bây giờ, quí Ngài đều đã cao đăng Phật quốc.

Thuở các Ngài khai sinh và bảo tồn GHPGVNTN thì những nhân chứng sống, khi ấy còn là những chú điệu, những sư chú, nay là những đại lão Hòa Thượng đang hiện diện nơi đây. Danh xưng GHPGVNTN như ngôi từ đường để hàng tăng sĩ Phật Giáo tìm về, đùm bọc, che chở nhau, cùng phát huy chánh pháp, làm rạng rỡ con đường truyền đăng tục diệm, Tổ ấn trùng quang.

Những buổi thuyết trình và pháp đàm vô cùng đa dạng khi tăng chúng vừa được học nội điển vừa được thảo luận những đề tài luôn bạch hóa trước công luận để đạt sự trong sáng và ngay thẳng.

Năm nay tăng chúng được H.T. tuyên Luật Sư, thầy Thái Siêu, cho ôn kinh Thanh Tịnh trong Trường A Hàm. Hòa Thượng cũng là người nhiệt tình khuyến tấn việc đào tạo tăng tài nên đích thân Hòa Thượng đã mở những khóa huấn luyện giảng sư, kỳ 3. Năm nay, khóa học sẽ bắt đầu từ 19 tới 23 tháng bảy năm 2011 tại Phật Học Đường Fremont, địa chỉ: 4273 đường Solar, thành phố Fremont, CA 94538.

Đặc biệt, trong mùa An Cư năm nay, giới Tăng Ni trẻ được trao trách niệm một phần thuyết trình trong chương trình hội luận. Phía Tăng sinh đảm nhận đề tài “ Phật Giáohạnh phúc gia đình”; phía Ni chúng nhận một đề tài vô cùng tế nhị là “Bát Kỉnh Pháp”. Đây là một vấn đề đang gây nhiều bàn cãi, vì hiện một vài nơi trên thế giới đang đề nghị hủy bỏ.

Ni chúng hiện tiền tại mùa an cư năm nay đã họp nội bộ, bầu thuyết trình đoàn và cùng nhau góp ý về nội dung cũng như cách thức sẽ trình bầy trước Nhị bộ đại tăngtoàn thể đại chúng. Sư Bà trụ trì chùa Xá Lợi đã nhắc nhở những điểm cần nắm vững sau khi quan điểm chung đã được biểu quyết đồng thuận là ni chúng một lòng y giáo phụng hành Bát kỉnh Pháp.

thebuddhismretreat2011__7_

Thuyết trình đoàn gồm bốn vị:

Ni sư Hương Quang nói về nguyên nhân Phật chế Bát Kỉnh Pháp

Ni sư Giới Định phụ trách phần thảo luận về Bát Kỉnh Pháp

Sư cô Phước Quang đúc kết chương trình

Sư cô Thông Thành là điều hợp viên chương trình hội thảo.

Ngay khi thuyết trình đoàn trình diện, Hòa Thượng Thắng Hoan đã tán thán:

-Đây là một hình ảnh tươi mát mà có lẽ cũng là lần đầu, bên ni chúng đã tự tin, dõng mãnh, ngồi trên bàn chủ tọa, để trình bầy về một chủ đề đang gây bàn tán sôi nổi khắp nơi.

Ngay phần giới thiệu thuyết trình viên, sư cô MC lập tức tạo được không khí sinh động, thoải mái, qua sự duyên dáng, hài hòa cùng trí tuệbản chất sư cô đã từng có. Ni sư Hương Quang thật trẻ trung với tuổi hạ và tuổi đời, đã thỉnh mời đại chúng trở về con đường lịch sử năm xưa, theo những bước chân rớm máu của 500 thể nữ, được di-mẫu Kiều Đàm Di hướng dẫn từ thành Vương Xá về vườn Đại Lâm, thành Tỳ Xá Ly, gặp Đức Phật để cầu xin xuất gia. Sự kiện này, đa số các vị hiện diện đều đã biết, nhưng vẫn không dấu được cảm xúc khi ni sư kể lại.

Phần thảo luận, tưởng sẽ rất “gây cấn” vì những tế nhị vô cùng vi tế trong Bát Kỉnh Pháp đối với môi trường xã hội ngày nay. Nhưng sự khéo léo của sư cô MC đã dẫn những câu hỏi hóc búa trở về lập trường của ni chúng hiện diện. Đó là sự tri ântuân hành tuyệt đối Bát Kỉnh Pháp, vì chính nơi pháp này, Đức Phật đã thể hiện lòng từ bi, bình đẳngxót thương, che chở thân phận nữ giới.

Sư cô Phước Quang thay lời cảm tạ bằng bài cổ nhạc “Kính nhớ ơn Thầy”đã kết thúc buổi hội thảo đầy lý thú do ni chúng chủ tọa.

Những đề tài khác trong khóa An Cư đều mang nhiều lợi lạc cho sự cầu học. Chẳng hạn như: Tứ Diệu Đế áp dụng vào đời, thích nghi vấn đề nghi lễ, Phật Giáo phát triển trên đất nước Hoa Kỳ …v…v… Về nội điển, giới xuất gia được học một số phẩm trong các kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, và Tăng Nhất A Hàm với sự hiện diện rất cảm động của Hòa Thượng Thích Phước Tịnh. Lịch trình thuyết giảng của Thầy hiện dày đặc khắp nơi, nhưng Thầy vẫn thu vén để về trường hạ. Thầy là hiện thân trọn vẹn của câu chú “Tùy sở trú xứ thường an lạc”. Bất cứ nơi đâu, môi trường nào, mưa nắng ra sao, Thầy vẫn thong dong, bước những bước thiền hành, nhấp chén trà thiền vị, nói mà như không lời, đi mà như không tới … Vậy mà, bất cứ nơi nào Thầy ghé, khi rời đi, luôn để lại thật đầy.

Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011, đại chúng đã được hưởng pháp thực vô cùng sung mãn, đem lại rất nhiều lợi lạc trên hành trình tu học.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Huệ Trân
(Trường Hạ PHVQT 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 790)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1155)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 805)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant