Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thầy tôi

15 Tháng Chín 201100:00(Xem: 12511)
Thầy tôi


THẦY TÔI

 Lần đầu tiên tôi gặp thầy là ngày đầu tiên tôi bước chân vào tu viện bắt đầu cuộc đời tu học của mình. Lúc đó, tôi vừa trải qua một chuyến hành trình cả ngàn cây số từ Sài Gòn ra Huế, người vừa mệt mỏi vừa buồn ngủ. Nhưng em tôi nói là phải đi chào ôn trụ trì và ôn Từ Đức. “Ôn” là từ của người miền trung dùng để gọi những bậc tôn túc nhưng hai chữ “Từ Đức” làm cho tôi có ấn tượng. Từ Đức có nghĩa là hiền từ, từ biđức hạnh. Từ Đức là tên một ngôi chùa ở Cam Ranh-Khánh Hòa mà thầy tôi làm trụ trì. Vì muốn xây dựng một chúng tu tập “đi như một dòng sông” nên thầy tôi phải rời Từ Đức để ra ở Từ Hiếu-Huế. Khi chào ôn trụ trì Từ Hiếu xong, em tôi dắt tôi đến phòng của ôn Từ Đức để chào nhưng không gặp, chúng tôi về lại tăng xá để nghỉ ngơi. Mọi người thường tránh không gọi pháp danh của thầy mà gọi là “Ôn Từ Đức”, chỉ gọi tên ngôi chùa thầy đang trụ trì để tỏ lòng tôn kính. Nhưng với tôi, tôi chỉ gọi thầy tôi là “Thầy”. Chữ “Thầy” nghe thật gần gũi, thân thương và cũng đã bao gồm tất cả nghĩa với lòng quý kính của tôi đối với thầy.

 ht_giac_vien Đang loay hoay dọn chỗ nghỉ, tôi nghe một giọng nói nhẹ nhẹ, trầm trầm, vui vui, mang âm điệu miền trung từ ngoài cửa “Đâu, ai là người mới tới đâu?”. Tôi quay ra thì thấy một ông thầy độ khoảng 60 tuổi, dáng người thấp thấp, gầy gầy mang một vẻ thanh thoát hiền từ với cái nét của một nhà tu khổ hạnh, nét mặt tươi nhuần nhìn tôi cười nhẹ và hỏi “Con mới tới phải không?”. Sau vài lời chào hỏi, thầy bảo tôi viết cho thầy một bài về hoàn cảnh gia đìnhtâm nguyện xuất gia của mình. Với trạng thái mệt mỏi sau một chuyến đi dài cả ngàn cây số thì không làm sao tôi có thể viết một bài văn hay được, tôi viết cho thầy một bài mà sau đó tôi đọc lại cũng thấy buồn cười, không phải là một bài viết của một người có học hành đàng hoàng mà giống như bài viết của một đứa học trò cấp hai. Tôi nộp bài cho thầy xong, buổi chiều, thầy gặp tôi và nói “bài viết gì mà câu văn nó cụt cụt làm sao đó, con viết lại cho thầy bài khác nhé”. Tôi vâng lời nhưng xin thầy cho tôi hẹn vài ngày sau sẽ nộp, thầy đồng ý. Tôi cũng hơi khó chịu vì tại sao cứ phải viết đi viết lại, sau này tôi mới biết đó là thầy tập cho chúng tôi cách làm văn và cách tư duy để chia sẻ kinh nghiệm tu tập của mình trước đại chúng.

 Với chúng tôi, thầy không chỉ là người thầy mà thầy như người cha, như người mẹ, như người anh và đôi khi như một người bạn, thầy luôn gần gũi theo sát từng anh em trong chúng để hiểu được tính tình và tâm tư của từng người để thầy có cách nâng đỡ, dạy dỗ. Thầy làm cho chúng tôi không có cảm giác là đang sống trong tu viện, đang sống xa nhà mà chúng tôicảm giác là mình như đang được ở nhà, đang được ở gần với cha mẹ, anh em. Có những đêm không ngủ, thầy đi đến từng phòng trong tăng xá để xem anh em ngủ như thế nào, có người nằm co ro không đắp mền thì thầy kéo mền đắp cho. Có người nằm thò tay, chân ra khỏi mùng thì thầy kéo lại để chúng tôi nằm không bị muỗi cắn. Lúc mới đi tu, ai cũng có những tập khí ngoài đời của mình, tất cả anh em chúng tôi đều chưa quen được với thời khóa của tu viện, nên mỗi sáng sau khi chuông thức chúng thỉnh xong là thầy tôi cầm đèn đi một vòng tăng xá để đánh thức chúng tôi dậy. Đến trước mỗi phòng, thầy gõ vào cửa ba tiếng và cầm đèn rọi vào phòng, có những em dậy không nổi, thầy đến bên để đánh thức, có lần, có em do ngủ say quá thầy gọi mãi không dậy còn đạp thầy một cái ngã lăn, nghe kể như vậy tôi xót thầy lắm. Vì với tôi, từ sau khi học xong, đi làm va chạm nhiều, tôi luôn muốn tìm cho mình một người thầy để quý kính, có thể cảm phục được mình và có đức hạnh đủ khả năng để giúp tôi thuần hóa được bản ngã và tôi đã được gặp thầy. Ở thầy có đầy đủ phẩm hạnh của một người thầy mà tôi đang tìm, nên tôi rất thương kính và trân quý thầy. Ở gần thầy, tôi cảm thấy thật ấm áp, trong lòng thật thanh thoát, nhẹ nhàng. Những lời dạy của thầy giúp tôi hiểu được nhiều điều trong việc tu tập. Thầy dạy cho chúng chúng tôi từng lời ăn tiếng nói, từ cách bước đi, từ cách ăn như thế nào để đúng là mình đang ăn cơm chứ không phải mình đang ăn quá khứ, đang ăn tương lai, cách suy nghĩ, cách tư duy, cách nhìn một sự việc, cách hành xử như thế nào để đúng với phẩm chất của một vị tu sĩ. Những việc chúng tôi làm hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, giặt áo, kinh hành, những việc mà tôi tưởng chừng mình đã biết làm từ lâu, nhưng thực ra vì cuộc sống bận rộn nên lúc nào cũng làm như bị ma đuổi, làm mà nghĩ đến những việc đâu đâu nên thực sự là không làm. Thầy luôn sẵn sàng ngồi nghe chúng tôi chia sẻ những khó khăn của mình để tìm cách nâng đỡ, dạy dỗ, giúp chúng tôi tháo gỡ những khó khăn của chính mình để vững bước trên con đường tu tập.

 Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi. Với chúng tôi, thầy luôn dùng ái ngữ để giáo huấn và thầy dùng chính oai nghi tế hạnh của mình để chúng tôi thực tập theo. Sau mỗi lần được thầy nhắc nhở, nhìn thấy được khuyết điểm và lỗi lầm của mình, chúng tôi lại quyết tâm thực tập sao cho không phạm phải những lỗi mà mình đã vấp phải. Ở thầy, tôi thấy luôn có sự thanh thoát, oai nghiêm, từ bi, vững chãi. Tôi nghĩ là mình không đủ từ ngữ để diễn tả hết được phẩm hạnh và oai đức của thầy.

 Thời gian gần thầy giúp tôi thay đổi rất nhiều. Tôi như được làm mới lại, không còn là chàng thanh niên sôi nổi, nóng nảy, hiếu động mà giờ đây tôi là một tu sĩ điềm tĩnh, hiền lành, nhẹ nhàng, vững chãi, dễ tha thứ, dễ chấp nhận mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Giờ đây, tôi không còn được ở gần thầy, những lời dạy của thầy tôi cũng không nhớ hết nhưng tôi áp dụng được vào nếp sống tu tập của mình. Và hình ảnh thầy luôn nằm trong tâm tôi, hình dáng một vị thầy già thấp thấp, gầy gầy với khuôn mặt xương xương tươi nhuần, với ánh mắt hiền từ, tướng đi hơi khòm với dáng vẻ thanh thoát, tự tại, oai nghiêm vững chãi, giọng nói trầm ấm mang âm hưởng miền trung có sức thuyết phục người nghe. Với tôi, thầy như một tấm gương sáng mà tôi cứ phải soi mình vào tấm gương ấy để cố gắng trên con đường tu tập.

 Thầy tôi, thượng Giác hạ Viên, trụ trì chùa Từ Đức, Cam Ranh-Khánh Hòa

Hoằng Tín

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 687)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 796)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 956)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 995)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 750)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1292)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1153)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1239)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1173)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant