Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lộ Trình Chứng Đắc Chân Lý

02 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9717)
Lộ Trình Chứng Đắc Chân Lý

Lộ Trình Chứng Đắc Chân Lý


lo-trinh-chung-dacĐức Phật, trong khi không đồng tình với thái độ nhẹ dạ cả tin của một số tín đồ các tôn giáo khác trong việc theo đuổi đức tin thiếu cơ sở chứng thực1, đã nêu ra phương pháp tiếp cận và chứng đắc chân lý gồm 12 bước đi hết sức căn bảnsáng suốt. Ngài cho rằng, trí tuệ (annà) hay chân lý (saccam) - đồng nghĩa với sự giác ngộ, giải thoát khổ đau hay Thánh quả A-la-hán – không đến với con người ngay lập tức nhưng đến do học từ từ (anupubbasikkhà), hành từ từ (anupubbakiriyà), thực tập từ từ (anupubbapatipadà), trên cơ sở các suy cứu và thực nghiệm khoa học. Phương thức tiếp cận và chứng đắc chân lý do Ngài đề xuất gồm các bước:

1. Khởi lòng tin (saddhà): niềm tin hay lòng quý trọng phát sinh thông qua việc tìm hiểu đầy đủ về phẩm hạnh của vị đạo sư và giáo pháp do vị ấy thuyết giảng2;

2. Đến gần (upasamkamanam): tiếp xúc, gần gũi với vị thầy để học hỏi giáo pháp;

3. Tỏ sự kính lễ (parirùpàsanà): có thái độ tôn trọng đối với vị thầy;

4. Lóng tai (sotàvadhànam): chú tâm lắng nghe lời thầy khuyên dạy;

5. Nghe pháp (dhamma-savanam): lắng nghe và ghi nhớ đầy đủ những gì vị thầy giảng dạy;

6. Thọ trì pháp (dhammadhàranà): tiếp nhận và nắm bắt đầy đủ những gì vị thầy trình bày;

7. Suy tư ý nghĩa các pháp (atthupapàrikkhà): suy xét nghĩa lý từng lời dạy hay pháp môn do vị thầy thuyết giảng;

8. Chấp thuận các pháp (dhammanijjhàna): đồng tình với các pháp do vị thầy giảng dạy;

9. Sanh khởi ước muốn (chanda): khởi lên ước muốn thực hành theo hay sống theo giáo pháp mà mình đã được học hỏi;

10. Nỗ lực (ussàha): thu xếp công việc và dành nhiều thời gian cho việc hành trì giáo pháp đã được tiếp thu;

11. Cân nhắc (tulàna): xem xétlựa chọn (trạch pháp) pháp môn tu tập phù hợp với điều kiện sinh hoạt và khả năng phát triển tâm thức của mình;

12. Tinh cần (padhàna): ngày đêm nhiệt tâm tu tậphành trì giáo pháp đã được học hỏitiếp thu, ngụ ý sự chuyên tâm thực hành pháp môn thiền quán (vipassanà) để chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát3.

Kinh Phật mô tả như vầy về ý chí nhiệt tâm tinh cần của một vị đệ tử đã thiết lập lòng tin vững chắc nơi giáo pháp của bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy: “Dầu chỉ còn da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dõng”4.

Bậc Đạo sư xác nhận rằng do tinh cần (padhàna), tức sự nỗ lực chuyên tâm hành trì giáo pháp đã được học hỏitiếp thu đầy đủ hay sự luyện tập, tu tập, hành tập nhiều lần giáo pháp ấy (dhammànam àsevanà bhàvanà bahulìkammam), nên một vị sa-môn tự thân chứng được sự thật tối thượng (paramasaccam sacchikaroti), và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy (pannàya tam ativijjhati), vị ấy thấy (passati)5: “Đây là những bệnh chướng, những cục bướu, những mũi tên. Ở đây, những bệnh chướng, những cục bướu, những mũi tên được trừ diệt, không có dư tàn. Do chấp thủ được diệt ở ta, nên hữu diệt; do hữu diệt, nên sanh diệt; do sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được diệt trừ. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này”6.

Trên đây là lộ trình chứng đắc chân lý gồm 12 bước nỗ lực, khởi từ lòng tin cho đến tinh cần hay sự chuyên tâm hành trì giáo pháp do vị đạo sư giảng dạy. Đáng chú ý là tiến trình này cũng bắt đầu bằng lòng tin, tức sự tin tưởng vào phẩm hạnh của vị thầy và giáo pháp do vị thầy thuyết giảng, nhưng tiếp theo đó là cả một chuỗi các nỗ lực khác đòi hỏi người tìm cầu chân lý phải tự mình thực hiện. Xem ra thì đức tin chỉ là bước sơ khởi trong đường lối tu tập đầy công phu của người học Phật, vì bên cạnh lòng tin còn có các bước nỗ lực khác mà người tu học Phật pháp cần phải hoàn thiện. Đức Phật nói đến lòng tin như là điều kiện căn bản cho sự sinh khởivận hành của tiến trình thực nghiệm chân lý gồm nhiều bước nỗ lực, và như vậy, nếu người học Phật chỉ dừng lại ở đức tin không thôi thì không đủ để thực nghiệm hay chứng đắc chân lý. Nói cách khác, ngoài niềm tin, người Phật tử còn phải nỗ lực tu học thật nhiều nữa mới có thể đạt được mục đích cứu cánh là sự chứng đắc chân lý hay giải thoát khổ đau. Sau đây là luận chứng về tiến trình chứng đắc chân lý của Đức Phật7:

“Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hanh từ từ, thực tập từ từ?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, một vị có lòng tin, đi đến gần; sau khi đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ; sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau khi lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy thọ trì pháp; sau khi thọ trì pháp, vị ấy suy tư ý nghĩa các pháp được thọ trì; sau khi suy tư ý nghĩa, các pháp được chấp thuận; sau khi các pháp được chấp thuận, ước muốn sanh khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực; sau khi nỗ lực, vị ấy cân nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy”.

Nhìn chung, phương pháp chứng đắc chân lý hay giải thoát khổ đau mà Đức Phật đã đề xuấthết sức cụ thểrõ ràng. Đó là hướng đi của niềm tin chân chánh hướng thiện gắn liền với sự nỗ lực học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ về những gì mà tự thân đã được tiếp xúc, lắng nghe, học hỏi, suy cứucân nhắc. Không hề có“tín điều”hay sự nhẹ dạ cả tin trong phương pháp hành trì của người Phật tử. Đức Phật nói đến lòng tin nhưng không chấp nhận thái độ dễ duôi trong cách tiếp cận và thể nghiệm chân lý. Trong các bản kinh của Ngài, Đức Phật từng khuyên môn đệ mình phải xét kỹ những lời dạy, thậm chí tư cách giác ngộ của Ngài, để đoán chắc con đường mà mình đi theo8. Ngài xác nhận giáo lý của Ngài có khả năng làm sạch tâm cấu uế và khuyên người hành trì cần phải khéo léo từng bước thử nghiệm để đạt cho được mục tiêu rốt ráochứng nghiệm sự thật hay giải thoát khổ đau, giống như người thợ kim hoàn cần phải khéo léo trong các khâu đãi lọc và nung nấu quặng vàng để cuối cùng lấy cho được thỏi vàng tinh luyện9.

Nghiên cứu về đạo Phật, giáo sư T. W. Rhys Davids đánh giá cao thái độ tinh thần rất khoa học này của Đức Phật khi nói rằng người ta cần phải lưu ý tới mục đích lẫn phương pháp của nó khi so sánh đạo Phật với các hệ thống tôn giáo khác để thấy rõ vị trí đúng đắn của Phật giáo trong lịch sử tôn giáo của Ấn Độthế giới nói chung10. Theo Rhys Davids, “Phật giáo là một trong số các “tôn giáo kinh viện”. Khi chúng ta nghe rằng nó được thành lập khoảng 500 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, chúng ta có thể nghĩ Phật giáo quá cổ điển, – xa xưa, sơ khai, sơ đẳng, giống như các bộ môn nghệ thuật và khoa học của thời đại xa lơ xa lắc ấy. Thế nhưng, nói một cách nghiêm túc, Phật giáo là một trong các sản phẩm mới mẻ nhất của tâm thức con người”11.

Bên cạnh phương pháp tiếp cận và thực nghiệm chân lý gồm 12 bước nỗ lực mà Rhys Davids đã xem là “sản phẩm mới mẻ nhất của tâm thức con người”, hẳn là còn nhiều vấn đề thiết thực và sâu sắc khác trong giáo lý đạo Phật đáng để cho người ta tiếp tục khám phá, ngạc nhiêntrân trọng lời Phật dạy.

Chú thích:

1. Kinh Cankì, Kinh Subha, Trung Bộ; Kinh Tevijjà,

Trường Bộ.

2. Kinh Cankì, Trung Bộ.

3. Kinh Nhất dạ hiền giả, Trung Bộ.

4. Kinh Kìtàgiri, Trung Bộ.

5. Kinh Kìtàgiri, Kinh Cankì, Trung bộ.

6. Kinh Màgandiya, Trung Bộ.

7. Kinh Kìtàgira, Trung Bộ.

8. Kinh Upàli, Kinh Tư sát, Trung Bộ.

9. Kinh Kẻ lọc vàng, Tăng Chi Bộ, Kinh Giới phân biệt, Trung Bộ.

10. T. W. Rhys Davids, Indian Buddhism, tr. 11.

11. T. W. Rhys Davids, Indian Buddhism, tr. 11.

Thanh Liên


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3194)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3599)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3763)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2899)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2679)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3189)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3679)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3284)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3354)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2952)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3427)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3773)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3602)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3597)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2948)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3591)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3114)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3628)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3437)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3421)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3859)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3931)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3305)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3636)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3342)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3160)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3203)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4615)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3574)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3124)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4466)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3389)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3989)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4557)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3811)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3276)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3529)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3109)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3307)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3803)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3787)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3352)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3244)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3213)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3145)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3594)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3400)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3399)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3469)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3960)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant