Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếu Không Có Phật

12 Tháng Hai 201521:18(Xem: 10269)
Nếu Không Có Phật
Nếu Không Có Phật

phat156Tôi đi ngang một khu chợ tự phát, thấy cô bé độ 15-16 mặt mày xinh xắn đang ngồi chào mời khách mua lươn. Cái chậu lươn của em có đến mấy chục con. Em đang làm lươn, vẻ mặt rất bình thản, tay dính đầy máu. Tôi bỗng thấy chóng mặt và nghe tim mình nhói đau.
Đúng là trong cuộc sống, ta rất cần có được một tâm tư bình thản để đối mặt với đời. Nhưng con lươn dưới tay em đang oằn oại, thống khổ tận cùng song em không chút động lòng vì nỗi đau của nó, em đã quen với nghề nghiệp của mình và không còn biết xót xa cho số kiếp những con vật bị an bài theo thuyết “Vật dưỡng nhân”.
Hồi nhỏ, dạo 8-9 tuổi, tôi còn “anh hùng” hơn em. Ba tôi mở một quán kem gần chợ. Mật ngọt của kem thu hút đông đảo khách hàng đến tiệm - không phải người - mà là ruồi!
Ba tôi giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt: đập ruồi. Tôi nhận “vũ khí” ông đưa, mới đầu tôi chỉ làm theo bổn phận, nhưng dần dà tôi cảm thấy khoái chí nhất là sau mỗi tiếng “chát” vang lên, ruồi nằm chết dẹp lép, ruột lòi ra, công việc của tôi đã thành trò tiêu khiển, ruồi phải nằm bẹp dí lòi ruột, thì tôi mới thích thú.
Đó là quãng thời gian tôi sống trong tối tăm - tối tăm - vì tôi không biết đến Phật pháp. Trong nhà tôi vẫn có thờ hình Phật, song giáo lý Ngài tôi chưa thấm sâu, nhà tôi cũng cữ sát hại, chẳng giết con gì để ăn, nhưng những loài côn trùng nhỏ nhít cỡ ruồi muỗi trở xuống thì chẳng ai quan tâm thương đến chúng.
Rồi khi vào chùa tu, chúng tôi thường kể chuyện cho nhau nghe. Một pháp lữ bảo tôi:
- Hồi nhỏ chị khoái nhất là bắt chuồn chuồn, ngắt đuôi nó đi, rồi cắt tua giấy kiếng nhiều màu, se nhọn một đầu, nhét vào ruột chuồn chuồn, thả nó bay lên, chị thích chí nhìn đuôi giấy đủ màu bay lượn giữa trời, không biết làm vậy là con chuồn chuồn đau ruột, cũng không hiểu nó đau như thế nào? Cho tới năm hơn 20 tuổi chị bị viêm ruột, rồi về già thì ung thư ruột, bỗng dưng chị lại nhớ và thấu hiểu nỗi đau của con chuồn chuồn.
Tôi thuật lại cảnh đập ruồi của mình, tôi không đau ruột như chị, nhưng bây giờ tôi hưởng cái đau toàn thân, từng đốt xương đều nhức buốt, mỗi khi nhúc nhích cơn đau càng gia tăng khiến tôi cử động thật khó khăn. Điều khiến tôi có thể song hành và chấp nhận được cơn bệnh là tôi biết mình đang “nếm thử” quả của nhân gieo không lành ngày xưa. Cơn đau này có thấm vào đâu so với nỗi đau hàng trăm con ruồi lòi ruột bẹp dí?
Có thể cho là tôi suy nghĩ viển vông, mơ hồ. Nhưng nghĩ theo nhân quả cũng rất có lợi, bởi vì mỗi lúc thân xác bị bệnh hoành hành đau đớn, tôi lại nhớ đến hành động sát sinh của mình ngày xưa và tự dưng có đủ sức chịu đựng và thấy cơn đau vơi đi, nhẹ bớt. Bàn về thuyết nhân quả của Phật giáo, tôi chợt nhớ đến chuyện bà cô họ của tôi. Hồi trước giải phóng, bà chuyên bán bì bún chả giò ở chợ BH. Ngày nào cũng mua cả thúng thịt heo đem về luộc chuẩn bị cho món bì vào buổi bán ngày mai. Sau này khi già, da bà ngả màu y như thịt heo luộc, rõ nhất là phần bàn tay.
Còn bé Hà công quả chỗ tôi, em ở nhờ chùa đi học bổ túc, vẫn tụng niệm, ăn chaytu tập “nháp” theo thời khóa dành cho Ưu bà di. Nhưng lúc cần tiền em cũng nhận làm móc câu cho một hãng sản xuất cần câu cá. Vào nghề mới nửa tháng, cổ họng em sưng tấy, lưỡi cũng sưng lở nhìn giống như bị lưỡi câu móc. Tất nhiên là em rất đau đớn, thế là em hoảng kinh, vội lạy sám hối và bỏ nghề. Sau này em xin vào một hãng may, lương ổn định, cuộc sống tương đối không chật vật.
Còn cô em gái của bạn mợ tôi có tài nấu ăn rất khéo. Do túng bấn nên khi được các nhà khá giả bên Tin Lành giúp đỡ, cô liền cải đạo. Gặp tôi, cô có vẻ ngượng ngùng, lo phân minh giải thích... tôi mỉm cười bảo:
- Không sao. Miễn là cô sống thấy an ổnhạnh phúc là được rồi.
Sau đó, cô xin vào làm bếp cho một công ty nước ngoài, lương rất cao. Công việc hàng ngày của cô là chế biến thịt bồ câu, hàng ngày cô cắt cổ cả trăm con. Gặp tôi, cô kể về công việc của mình với vẻ mãn nguyện, hạnh phúc. Cô đang muốn tôi chia sẻ niềm vui lớn của cô. Cuộc sống cô đang phất lên vì sung túc. Nhưng cô không nhận ra nụ cười gượng gạo và tâm tư héo hon của tôi. “Một ngày cắt cổ cả trăm con bồ câu...” tôi nghe mà đau lòng, cô đang tạo ác nghiệp chất chồng, làm sao tôi dám khuyên cô, cô đã là người ngoại giáo, đâu thèm tin thuyết Nhân quả quá cổ xưa nhiều cấm đoán của Phật(?), cô đang đổi đời xán lạn nhờ cải đạo, cải nghề, không thấy sao?...
Tôi chào cô, lủi thủi đi. Nửa năm sau tình cờ gặp lại, tôi ngạc nhiên khi thấy cô quá xanh xao tiều tụy. Cô báo tin mình đã bỏ nghề. Hóa ra, giết bồ câu được sáu tháng, cô bị bịnh nặng, cổ và bụng đều nổi bướu độc, suýt chết. Số tiền lương hậu hĩ không đủ để chạy thuốc thang. Cô hoảng quá, bỏ nghề, quay về đạo Phật lại, lo lễ bái sám hối. Hiện giờ cô đang ở và công quả các chùa, phụ việc trong phòng thuốc từ thiện. Cô không giàu, nhưng bệnh nhẹ hẳn. Tôi mỉm cười:
- Hồi đó em muốn khuyên mà không dám, lo thầm vì thấy cô tạo tội sát lớn quá, mỗi ngày giết cả trăm sinh mạng, mà cho dầu cô kiếm được tiền bằng cả núi vàng thì cũng là họa chứ không phải phúc...
Tôi không nói hết cô đã hiểu, mắt nhìn tôi đồng tình. Nắm tay tôi lắc lắc. Tôi móc túi, lấy phần tiền nhuận bút của mình, biếu cô. Cô nhận, mắt rưng rưng. Bây giờ tuy cô không dư dật, sống nhờ và công quả ở chùa nhưng có lẽ nội tâm thanh thản hơn.
Đọc đến đây có lẽ sẽ có người nói rằng: ... khối người giết chóc, khối người sát sinh mà vẫn sống phây phây, ăn nên làm ra, có khổ báo gì đâu?
Phật từng giải thích rằng: Quả báo có khi trả sớm, có khi trả muộn.
Thật sự nếu để ý, ta sẽ thấy những người đang sống hiền thiện mà xoay qua làm ác, trả quả rất nhanh. Quả này xảy ra như một cảnh báo, giúp họ đình chỉ việc ác và hồi đầu. Giống như chiếc áo trắng, vừa mới bị lem vài vết mực, được chỉ để tẩy ngay. Có những người cả đời làm ác, song do một biến cố nào đó khiến họ thức tỉnh, xoay qua làm thiện mạnh mẽ. Đó là nhờ duyên lành đời trước nên họ còn được cảnh tỉnh để quay về với nẻo thiện. Còn người làm ác quá nhiều mà không thấy “trả” gì. Thì quả sẽ trả sang đời sau, khi phúc hưởng hết thì họa ập tới còn thê thảm hơn. Phật luôn nhắc nhở môn đệ Ngài: “Nên sống chánh nghiệp, không sống tà nghiệp”. Chánh nghiệp là những nghề đem đến lợi ích cho mình và người. Tà nghiệp là những nghề kiếm ra tiền trên đau khổ của người và vật. Còn nếu nói: “Vì nghèo nên phải sống tà nghiệp thì sao?”... Tôi bỗng nhớ câu: “Trời Phật không triệt đường của ai cả, nếu người ấy thật lòng muốn sống thiện thì niệm lành trong tâm sẽ chiêu cảm, giúp họ có cơ may hành thiện nghiệp". Tôi thú vị khi nhớ thời xưa nước Ấn Độ vẫn có những ngày vua chúa cấm giết hại, cấm bán thịt, nhất là những vị vua mộ đạo...
Nếu không có Phật, không có giáo lý Ngài hướng dẫn, có lẽ tôi đã tạo tội bằng non. Nhờ Ngài, tôi biết phân biệt thiện ác, biết suy gẫmnhân quả khi gặp phải bất công, biết đắn đo khi gieo nhân, biết đình chỉ khi niệm ác khởi, biết trau giồi phẩm hạnh để phát triển bi trí hầu xoa dịu bớt khổ đau trong đời.
Cô bé vẫn ngồi đấy làm lươn, con lươn vẫn tiếp tục oằn oại dưới bàn tay em, mặt em vẫn rạng rỡ, luôn điểm sẵn nụ cười để chào mời khách. Ngoài nỗi xót xa, tôi chẳng thể làm gì trong nhịp sống đang đều đặn diễn tiến. Cầu mong sao ánh sáng Phật soi rọi khắp nơi, để người người sống theo Chánh pháp, không gieo nhân khổ đau và biết tạo hạnh phúc cho mình lẫn người.
Hạnh Đoan
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 800)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 958)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1001)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 795)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 766)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 629)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1171)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1144)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1134)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1197)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1106)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant