Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bệnh Đổ Thừa

09 Tháng Chín 201509:02(Xem: 11835)
Bệnh Đổ Thừa

BỆNH ĐỔ THỪA

Thiện Ý

Benh Do Thua


Có bao nhiêu người trong chúng ta, khi gặp chuyện gì xảy ra không như ý muốn, thì điều đầu tiên nhất, là kiếm cớ đổ tội cho người khác, cho hoàn cảnh! Đây là một mẩu truyện ngắn xảy ra cho một bà nội trợ, có bệnh hay đổ thừa: Bà ta đang đứng trong nhà bếp, mặc chiếc áo hồng nhạt, và cái quần trắng tươm tất, đắt tiền.  Trong tay bà là tách cà phê đầy, vừa mới pha xong, còn nóng hổi. Đây là tách thứ hai của bà. Bỗng dưng, bà hụt tay làm rơi cái ly cà phê xuống sàn nhà bếp, mảnh vỡ văng tứ tung, và nước cà phê đen đậm tung tóe lên bộ quần áo đắt tiền.  Và câu nói đầu tiên phát ra từ miệng bà là: “Đúng là tại thằng chồng mắc dịch!”

Bạn hãy thử xem cách bà ta giải thích như thế nào về cái lỗi của anh chồng khiến bà ta làm đổ ly cà phê và làm lấm lem bộ đồ đắt tiền, mà bà yêu thích:  Ông chồng bà thích chơi tennis và ngày hôm trước ông ta đi chơi đánh tennis với một số bạn. Và bà ta có dặn chồng nhớ về sớm, khoảng 10 giờ tối, vì bà ta không thể đi ngủ trước khi chồng bà về nhà. Ông chồng, vì lý do nào đó, đến 11 giờ tối mới về tới nhà.  Do đó mà bà bị đi ngủ trễ mất 1 tiếng.  Chính vì vậy, mà bà cần tách cà phê thứ hai để được tỉnh ngủ.  Nếu như mà ông chồng bà về đúng giờ (10 giờ) thì bà đâu có uống tách cà phê thứ hai, nên làm gì có chuyện bà làm đổ tách cà phê, làm lấm lem bộ đồ đẹp! 

Trong lúc bà đang lau dọn nhà bếp vì tách cà phê bị đổ thì ông chồng của bà gọi điện thoại về, hỏi rằng: “Ở nhà vui vẻ chứ hả, bà xã?” Bà ta liền trả lời: “ Tôi sẽ nói cho ông nghe chuyện gì vừa xảy ra!” Và bà bắt đầu kể lể với cái giọng rất hậm hực, hờn giận.  Bà mới nói tới câu tách cà phê bị đổ thì ông chồng cúp máy điện thoại vì ông ta biết chuyện gì đã xảy ra. 

Như vậy, bệnh đổ thừa là bệnh gì? Chúng ta đều biết chuyện đổ thừa cho thời tiết, cho chính phủ, cho cha mẹ, hay cho cái máy vi tính mắc dịch, hay trở chứng của mình!  Đây là những ví dụ điển hình.  Đã bao nhiêu lần chúng ta đi đến kết luận như vậy khi có chuyện gì xấu xảy ra; và việc đầu tiên bạn muốn biết là lỗi tại ai đây (chớ không phải tại tui!)? Thậm chí còn có bài hát đổ thừa cho trời đất: “Không phải tại anh, cũng không phải tại em. Tại Trời xui khiến nên chúng mình chia tay…”  Nói cho vui vậy thôi chớ căn bệnh đổ thừa này đang càng ngày càng tràn lan trong giới trẻ, và tất nhiên là luôn cả giới già vì dễ quá! Cứ đổ thừa đại cho ai đó là mình phủi tay, vô trách nhiệm! 

Đây là những nghiên cứu gần đây về bệnh hay đổ thừa:  Đổ lỗi cho người, hay cho cái gì đó là một hình thức giải phóng những sự khó chịu và đau đớn trong lòng.  Nó có một mối liên hệ trái ngược với tinh thần trách nhiệm.  Có trách nhiệm là một tiến trình dễ bị tổn thương, hay dễ bị chỉ trích.  Ví dụ, khi mình muốn nói chuyện với ai đó vì cảm giác bị đau khổ do trách nhiệm chưa tròn, hay làm sai quấy một điều gì đó mà mình đang chịu trách nhiệm. Mình thường chỉ nói chuyện này với người nào dễ thông cảm cho mình.

Người nào có tật hay đổ thừa thường ít có tính kiên trì bền bỉ, và thiếu can đảm để nói người khác phải chịu trách nhiệm cho việc chính người đó đã làm, bởi vì mình cứ lo phí sức vào việc sân giận người khác và đổ lỗi cho họ; và chính mình cũng ít khi nhận lỗi.  Bệnh đổ thừa thường làm cho các mối liên hệ tình cảm bị bào mòn và nó cũng chính là tác nhân khiến chúng ta đánh mất cơ hội để cảm thông với người.  Bởi vì khi có chuyện gì đó xảy ra, chúng ta không dành thời gian lắng nghe hết câu chuyện mà lo tìm kiếm càng nhanh càng tốt, những đầu mối nào đã khiến người khác làm mình làm sai.

Khi mình đổ thừa lỗi lầm của mình cho ai đó, mình đang che dấu sự thật về bản thân mình.  Phật thường dạy chúng ta phải nói sự thật, dù đôi lúc, sự thật có thể làm tổn thương chính mình.  Đổ thừa là một dạng nói dối, giới thứ tư.  Mình sợ bị liên lụy, hay sợ bị gánh trách nhiệm, hay vì sợ bị xấu hổ nên mới đổ thừa lỗi cho người khác.  Cách hành xử này chỉ mang đến tai họa cho mình về sau vì mình không học được gì từ những sai lầm do mình gây ra.  Thay vì rút kinh nghiệm cho lần sau, chúng ta lo đổ hết công sức tìm cách bào chữa cho mình, và trút hết lỗi lầm lên người khác.  Nên chi, mình không ăn năn, hối quá về những điều sai phạm do chính mình gây ra thì làm sao mà tu tập, sửa sai được! Đức Phật có dạy rằng: trên đời có 2 hạng người tốt nhất.  Một là hạng người không bao giờ lầm lỗi.  Còn hạng thứ hai là, hạng người biết mình lầm lỗi mà lo ăn năn, sám hối, tránh không tái phạm.

Bệnh đổ thừa còn khiến mình sống vô trách nhiệm.  Vì sợ bị chê cười nên mình cứ luôn viện cớ đổ lỗi cho người khác.  Tệ hại hơn nữa, kể cả khi mình biết chắc tự đáy lòng, đó là lỗi do chính mình gây ra!  Chúng ta sống dối trá, bề ngoài.  Trong gia đình, thậm chí còn đổ lỗi lẫn nhau.  Người này đổ lỗi người kia; người kia lại đổ lỗi người này.  Cái trò đổ lỗi cho nhau là rất thông thường, nếu bản thân họ không bị bắt quả tang, đang làm sai.  Phong cách sống ‘tốt khoe, xấu che’ đã trở thành thói quen nguy hại, thường tìm cách trốn tránh, không dám đối diện với những cái dở, cái xấu của bản thân.

 Kinh Pháp cú, phẩm Cấu Uế:

Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo.
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài. (H.T. Minh Châu dịch)

Ngoài ra, đổ thừa cũng là một hình thức đưa mình lên và hạ người khác xuống.  Khi mình nhanh chóng đổ thừa cho ai vì họ làm cẩu thả, bừa bãi mình cũng cảm thấy một thoáng hả hê vì mình ‘ngon lành’ hơn họ.  Hoặc dĩ mình có làm sai thì cũng tại họ mà ra nông nỗi này.  Nói chung, người hay có căn bệnh đổ thừa, ngay trong tâm ý, họ đã không có thói quen nhận lỗi về mình.  Họ luôn tìm một lý do nào đó để chạy tội. Thậm chí có lúc mình làm như mình là ‘nạn nhân’ của người kia. Sở dĩcớ sự như vầy vì người kia, người nọ ghét bỏ mình.  Cho nên, mọi chuyện sai trái xảy ra là do người khác cố tình gài bẫy cho mình làm sai!

Cho nên Phật dạy chúng ta phải ý thức những khổ đau, phiền não do mình gây ra qua những lời nói thiếu chánh niệm từ việc đổ thừa lỗi lầm của mình cho người khác.  Chúng ta phải quay trở về thực tập, học thấy lỗi của mình để chuyển hóa bản thân.  Có thể căn bệnh đổ thừa này phát nguồn từ đời sống thiếu trách nhiệm, và thiếu ý thức mà mình học được từ những người khác, hay trong hoàn cảnh sống.  Hãy học sống chân thật, dẹp bỏ những dối gian, lừa đảo, đổ lỗi cho người vì tự ái, vì muốn khoe khoang, hay vì bất cứ lý do gì!  Chúng ta ý thức rằng cái lối sống hay đổ lỗi cho người này đã không mang lại an lạc, hạnh phúc gì cho mình; ngược lại, nó còn làm cho chúng ta luôn âu lo, sợ hãi người khác khám phá ra sự thật về bản thân mình.  Cho nên Phật còn dạy thêm bốn điều cần thiết để tự vấn lương tâm trước khi nói:

  1. Tại sao mình nói điều này?
  2. Lời nói này có hoàn toàn đúng như sự thật?
  3. Bây giờ có phải là đúng thời, đúng lúc để nói ra hay không?
  4. Lời nói này mang lại lợi lạc hay tai hại?

Nếu động lực khiến mình nói ra lúc này là vì lợi ích cho bản thân, hay vì giận hờn; nếu nó hoàn toàn không đúng sự thật; nếu nó không phải lúc để nói ra; hay nó có thể đem lại đau khổ nhiều hơn là an lạc, vậy tốt hơn hết là đừng nên nói, đừng nên đổ thừa.  Chỉ đơn giản vậy thôi!  Trong nhiều kinh tạng, chúng ta thấy đức Phật thường trì hoãn trả lời những điều có thể khiến người hỏi không thích, hay không vui cho đến khi họ lập lại câu hỏi đến 3 lần.

Trong Kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu có đoạn viết:

Ý dẫn đầu các pháp
Ý chủ trì, tạo tác
Nếu ngôn từ, hành động
Với tâm ý nhiễm ác
Khổ theo tựa bánh xe
Đi sau dấu chân bò.       (Việt dịch TK Giác Đẳng)

Như vậy, căn bệnh đổ thừa, suy cho cùng, chẳng mang lại lợi lạc gì cho mình cả; ngược lại, nó còn mang đến khổ đau, tuyệt vọng.  Nếu chúng ta muốn tu thân mà cứ tiếp tục đổ thừa cho cái này, cái kia, người kia, người nọ thì mình sẽ chẳng bao giờ tu học được gì!

                                                                             Thiện Ý
                                                                       (tháng 8, 2015)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1081)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1328)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 800)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 790)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 932)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 819)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 976)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 987)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 917)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 844)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 945)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 901)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 999)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1601)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1241)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 791)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1245)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1311)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1293)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant