Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Làn Sóng Tích Cực Không Thấy

06 Tháng Bảy 201620:08(Xem: 7719)
Những Làn Sóng Tích Cực Không Thấy

NHỮNG LÀN SÓNG TÍCH CỰC KHÔNG THẤY 

Đức Đạt Lai Lạt Ma & Victor Chan
Tuệ Uyển

Những Làn Sóng Tích Cực Không Thấy

Đức Đạt Lai Lạt Ma rời khu vực giản dị của ngài ở tầng thượng một tu viện Tây Tạng tại Đạo Tràng Giác Ngộđi xuống cầu thang bên ngoài khoảnh sân hẹp của tu viện. Chiếc xe Đại sứ trắng đậu ở đấy. Nó trông cũng giống như những chiếc xe taxi khác thấy trong những thành phố Ấn Độ. Nhưng chiếc này được bọc sắt, cửa sổ dày, kính màu đủ mạnh để chống lại đạn. Một nhóm nhỏ Maoists cực đoan đã kích động gần Đạo Tràng Giác Ngộ mấy tháng gần đây. Và vùng này của Bihar, tiểu bang nghèo nhất của Ấn Độ, được biết như thỉnh thoảng có cướp vũ trang. Văn phòng ngoại giao ở Delhi đã gửi chiếc xe từ thành phố Lucknow kế cạnh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng trong chuyến hành hương đến Đạo Tràng Giác Ngộ và những nơi gần các Phật tích.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bước qua chiếc xe và rời khỏi tu viện, cùng theo có đoàn tùy tùng khoảng năm mươi người: những người phụ táthị giả, một số lạt ma cao cấp, một đội bảo vệ Ấn ĐộTây Tạng. Khu vực bên ngoài tu viện, trung tâm Đạo Tràng Giác Ngộ đã được dọn dẹp. Một đám đông những người hành hương và cầu mong tốt lành đang xếp hàng đợi chờ bên lề đường một cách nhẫn nại để được dịp chiêm ngưỡng vị lãnh tụ tôn kính Tây Tạng. Cảnh sát không cho xe hơi, xe đạp, xe kéo di chuyển trên đường.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thú vị với đoạn đường đi bộ ngắn này đến Đại Tháp Giác Ngộ thiêng liêng, nơi Đức Phật đã thành tựu Giác Ngộ. Đây sẽ là cơ hội để ngài gặp gở với những người bình thường. Nhiều lần, ngài đã tách ra khỏi những người bảo vệ để chào mừng một người nào đó trong đám đông.

Một đội quân ăn xin nhỏ, hầu hết là đàn bà không rõ tuổi tác trong những bộ sari đủ màu sắc, ngồi chồm hổm bên ngoài cổng tháp. Họ là những người thuộc đẳng cấp cùng đinh của Ấn Độ, và đã trải qua một đoạn đường dài để đến Đạo Tràng Giác Ngộ, đúng thời gian của lễ khai đạo Thời Luân 2002 - trong mười một ngày nghi lễ Phật Giáo được tiến hành bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma trước hai trăm nghìn người (200,000). "Ở đây nơi Đạo Tràng Giác Ngộ," Đức Đạt Lai Lạt Ma từng giải thích cho tôi, "một số đông người như vậy sẽ đến với nhau trong vài ngày để tập trung vào lòng vị tha. Do bởi điều này, tôi nghĩ là những làn sóng tích cực , có lẻ ở mức độ không thấy được, có thể xảy ra. Nhưng tôi có thể bảo đảm với ông, bất kể là tích cực hay không, tối thiểuvô hại. Và tôi nghĩ những  người tham dự, trong một thời khắc ngắn ngủi nào đó, có thể trải nghiệm một sự tĩnh lặng nào đó, một sự hòa bình và toại nguyện nào đó. Điều đó thường xảy ra trong lễ Khai đạo Thời Luân."

Một điều chắc chắn là, những người ăn xin biết là họ sẽ không đói. Và họ biết là, kết thúc hai tuần phóng túng, mỗi người trong họ chắc là sẽ về nhà với một xấp tiền giấy rupee (tiền tệ Ấn Độ).

Những người ăn xin chỉ hơi chú ý sự tiếp cận Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thay vì thế, sự chú ý chính của họ tập trung mạnh vào năm sáu người Tây Tạng đang kéo một thùng nhôm lớn chứa cơm màu vàng nghệ đến trước họ. Với những động tác nhanh, nhuần nhuyển, hai người trai trẻ múc những  phần bố thí vào chiếc ca thiếc chìa ra. Nghi thức này được tiến hành hai lần một ngày. Đi vội vàng trên đôi tay và đầu gối của chúng theo những người Tây Tạng di chuyển nhanh là năm hay sáu đứa bé bị bại liệt, những đôi chân như que diêm của chúng rung động nhịp nhàng phía sau thân thể gầy còm của chúng như những cái đuôi. Những đứa trẻ cũng sẽ không đói - không đói khi Đức Đạt Lai Lạt Ma ở trong thị trấn này.

Ở cửa ra vào phía trước chánh điện của Đại Tháp, Đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ đôi dép nhựa ra và lễ phủ phục ba lần trên một tấm tọa cụ lụa đỏ thắm trải trên nền bởi những thị giả của ngài. Sau đó ngài bước qua một lối hẹp vào chánh điện nổi bật tận cùng là một tượng Phật lớn.

Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến đến bảo tọa, bức tượng cao ngất phía trên ngài. Ngài lễ phủ phục ba lần nữa. Một nhóm tu sĩ Tích Lan, chói lọi trong những bộ y vàng nghệ của họ đi lượn đến gần. Họ là những bảo vệ chính thức của đại tháp. Chỉ một tá lạt ma cao cấp Tây Tạng trong y áo đỏ sậm và một ít bảo vệ Tây Tạng là những người khác trong điện Phật. Không khí gần như cay nồng với mùi nhang dày đặc phảng phất và mùi hơi người ẩm lâu ngày của vô số khách hành hương.

Tôi đứng chen bên cạnh Senge Rabten, trưởng nhóm bảo vệ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhà chuyên môn karate với thân hình ngắn gọn đang vói lên cố gắng sửa một chiếc quạt trần. Sau một dò dẫm nào đó, ông ta đã thành công trong việc hướng dòng không khí thẳng đến Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi có thể nghe những tiếng động của một đám đông khổng lồ bên ngoài, được giữ trong sự hạn chế bởi những chiến binh trang bị vũ khí tự động.

Những Làn Sóng Tích Cực Không Thấy 1

Một tu sĩ Tích Lan đưa chiếc bật lửa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Hai cây nến màu tím, hình xoắn và để trên chân đèn bằng đồng, đặt trên bệ trước tượng Phật. Đức Đạt Lai Lạt Ma thắp đèn một cách cẩn thận, từng chiếc một. Sau đó ngài nhìn lên Phật tượngchấp tay trong tư thế quy kính.

Tôi nheo mắt nhìn bức tượng cổ bằng đá, nghe nói là được tạc khoảng 1,700 năm trước. Khi được khai quật bởi những nhà khảo cổ Anh thế kỷ 19, đầu của bức tượng bị rời khỏi thân. Họ đã hàn gắn lại trước khi cung nghinh Phật tượng vào nội điện của đại tháp. Tôi đã biết rằng khi Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên chiêm ngưỡng bức tượng quan trọng nhất này, ngài đã bị khích động vì thấy chính mối ráp lại. Ngài đã cúng dường một số tiền lớn, thỉnh cầu được sơn bức tượng bằng vàng. Cơ quan khảo cổ Ấn Độ đã chống đối, nhưng cuối cùng, tình cảm tôn giáo đã thắng. Bức tường phía sau tượng Phật được sơn màu xanh dương và chiếu ánh sáng nhẹ, để tạo ảnh hưởng của khung cửa sổ lớn giống như bầu trời xanh. Tôi cố gắng để thấy nếp nhăn của mối ráp chung quanh cổ tượng nhưng không thành công.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bước trở ra Phật điện. Ngài xoay sang bên phải và đi nhiễu chung quanh đại tháp.

Ngay trước khi ngài đến cổng tháp, ngài đột nhiên thay đổi hướng đi và rẻ sang bên phải, đến gần một đám đông người Tây Tạng đang căng thẳng chống lại những nhân viên bảo vệ. Với người bảo vệ bên cạnh, ngài hướng đến một người trai trẻ ngồi trên mặt đất bên cạnh lão bà nét mặt rộng của người Mông Cổ, tóc bà kết thành hai bím dài. Người trai trẻ, khoảng mới hai mươi tuổi, có một cây gậy trong tay. Thế nào đấy, mặc dù mắt anh ta mở rộng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đoán là anh ta mù. Người tu sĩ Tây Tạng khom mình xuống, cầm tay người thanh niên, và nói với ngài trong một giọng sâu lắng. Ngài muốn biết anh ta từ đâu đến, anh ta có được chửa trị gì chưa. Tôi kinh ngạc với năng lực kỳ lạ của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi chọn ra người mất khả năng, tàn tật trong một đám đông khổng lồ.

Sau này tôi mới được biết người trai trẻ, Lobsang Thinley, đã đến với mẹ anh ta từ vùng Machen của Amdo, một bộ phận của tỉnh Thanh Hải, Trung Hoa, phía Đông Bắc Tây Tạng. Anh ta đã bị mù vào lúc mười lăm tuổi, khi đau đớn từ một chấn động nghiêm trọng sau khi bị té. Việc giải phẩu đã hồi phục khả năng nhìn của anh ta một phần nào, nhưng trước đó lâu rồi sự mù lòa của anh ta đã trở lại. Trải qua nhiều năm, mẹ anh ta đã cố gắng một cách tuyệt vọng để tìm cách cứu  chửa cho con trai bà, đưa anh ta đến những bệnh viện quan trọng ở Chengdu và Bắc Kinh, nơi anh ta được giải phẩu một lần nữa, và cũng được chửa trị bằng châm cứu. Không gì có kết quả. Thần kinh thị giác của anh ta đã bị hư hại nghiêm trọng, và anh được nói là anh không thể thấy lại lần nữa.

Khi anh ta nghe rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma, lần đầu tiên trong mười lăm năm, sẽ tiến  hành lễ Khai đạo Thời LuânĐạo Tràng Giác Ngộ đầu năm 2002, người con trai quyết định đi. Anh ta muốn được gần Đức Đạt Lai Lạt Ma, để nghe ngài giảng đạo. Gia đình và bè bạn cố gắng để khuyên ngăn: hành trình từ Đông Bắc Tây Tạng đến Nepal và Ấn Độ qua Hy Mã Lạp Sơn sẽ gian khó và nguy hiểm. Nhưng anh ta không nghe. Mẹ anh ta đã bán hết nữ trang và trâu bò và mượn người thân để dành dụm đủ tiền cho hành trình. Bà vẫn hy vọng rằng con trai bà ta sẽ thấy lại một ngày nào đó. Có lẻ họ gặp may mắn ở Ấn Độ, nơi khai sinh Phật Giáo.

Sau một vài trao đổi ngắn với bà mẹ và đứa con, Đức Đạt Lai Lạt Ma quay đi. Người trai trẻ cầm tay ngài thêm một lúc nữa, không muốn buông ra. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với một người phụ giúp của ngài. Ngài muốn Bác sĩ Tseten Dorji Sadutshang, một trong những bác sĩ riêng của ngài và giám đốc của bệnh viện Delek ở Dharamsala, khám nghiệm cho người trai trẻ xem có thể làm được gì không. Sau đó ngài rời Đại Tháp Giác Ngộ và đi bộ về tu viện Tây Tạng.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, December 08, 2015

Trích từ quyển The Wisdom of Forgiveness
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2718)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2318)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2781)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2565)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2674)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2558)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2384)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2685)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2461)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3288)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2338)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2430)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2564)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2484)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2562)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2243)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2608)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3077)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2671)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2739)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3030)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2582)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2628)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4142)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2794)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3096)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3332)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2305)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2536)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2831)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3023)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2888)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2638)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2650)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3213)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2679)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2328)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2416)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2512)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2620)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2712)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2774)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3307)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2577)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2144)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2632)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2123)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2900)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2998)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant