Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

26 Tháng Năm 201710:01(Xem: 8023)
Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

NHỮNG BÀI HỌC TỪ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT

PhatDan__10_Mùa tháng Tư âm lịch là cao điểm tưng bừng Lễ Hội Vesak và Phật Giáo kỷ niệm Đức Phật đản sanh lần thứ 2641. Những đêm hội diễn văn nghệ, những ngày diễu hành xe hoa, rước xá lợi Phật, những lúc phát quà từ thiện,những bài diễn văn hội thảo ý tứ thâm sâu, lời kinh kệ ngân vang nơi các đàn tràng quần chúng,…tất cả đều trôi qua dần khi tháng Tư khép lại. Thế nhưng, dư âm mùa Phật Đản vẫn mãi còn đó. Những bài học từ cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn in sâu trong chúng ta trong hành trình theo dấu Như Lai, đường xưa mây trắng, trở về bảo sở.
Ngài vốn là Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất, đến với cuộc đời này bằng nguyện lực chớ không phải do nghiệp lực. Ngài quán sát thấy Vua Tịnh Phạn Vương và Hoàng Hậu Ma Gia đức hạnh cao vời, đang cầu con trai nên chọn 2 vị này làm Song ThânCa Tỳ La Vệ làm quê quán đản sanh.. Ngài vào đời với Lục Độ Ba La Mật như báo hiệu với voi trắng sáu ngà thuần khiết, vững vàng vào trong lòng Mẹ. Vậy nếu Phật tử muốn về Tây Phương Cực Lạc để thoát ra ngoài vòng sanh tử - đó cũng là điều tốt – nhưng ở nơi Cực Lạc chỉ là luyện công, tạm thời, quan trọng là khi đã vững vàng rồi thì tiếp tục dấn thân hội nhập vào cuộc đời. Nơi nào có bùn nhơ ô trược thì nơi đó có hoa sen thanh khiết. Nơi nào có chúng sanh khổ đau thì nơi đó có Bồ Tát ứng hiện hóa độ.

Ngài đản sanh gắn liền với những sự kiện hy hữu vi diệu : sanh từ hông bên phải, dưới cây hoa Vô Ưu, chín rồng phun nước, bảy bước trên hoa sen với câu tuyên ngôn nổi tiếng : “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Trên trời dưới đất, Ta là hơn hết, sanh tử vô lượng đến nay chấm dứt),(có rất nhiều cách ghi chép khác nhau về câu tuyên ngôn này). Đã có rất nhiều sự thảo luận liên quan đến những sự kiện này, tựu trung Ngài bao hàm cả hai phương diện : Đức Phật Tôn Giáo (có những yếu tố mang tính cao siêu huyền diệu, khác thường) và Đức Phật Lịch Sử ( những chi tiết rất thật gắn liền với lịch sử, với cuộc sống con ngườixã hội thời đó). Những sự kiện thiêng liêng đó hiện diện một phần là vì lối văn chương mô tả hình tượng hóa sống độngthể hiện sự tôn kính với các bậc siêu nhân, vốn đã có từ thời Áo Nghĩa Thư, Vệ Đà,…Dù gì đi nữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một nhân vật lịch sử, có thật, sinh vào khoảng năm 544 Trước Công Nguyên (TCN), đặc biệt được xác chứng bởi trụ đá vua A Dục (Asoka) của Ấn Độ vào khoảng 2 thế kỷ sau thời Đức Phật. Năm 249 TCN, khi vua A-Dục (Asoka) đến thăm Lâm Tỳ Ni, nó còn là một ngôi làng phồn thịnh, Ông đã cho xây dựng bốn ngôi tháp và một cột trụ bằng đá được khắc chữ và dịch ra như sau: "Ta là vua A Dục, là niềm tin tưởng của chư thiên, trong 20 năm trị vì này, ta đã thực hiện một chuyến thăm của hoàng gia đến nơi đức Phật được sinh ra tại đây…Lâm Tỳ Ni được giảm một phần tám thuế "

 

Thái Tử Tất Đạt Đa có một nền tảng giáo dục vững chắc, toàn diện, bao gồm nhiều phương diện : văn chương, triết học, tôn giáo, võ thuật, trị nước, kinh tế, chính trị, quân sự,…Một người thường như chúng ta thật khó mà giỏi nhiều phương diện như Thái Tử Tất Đạt Đa. Tuy nhiên, nếu được như vậy thì hành giả có một nền tảng vững chắc để học, hiểu Đạo, hành Đạo và hoằng truyền Giáo Pháp. Chúng ta thấy, trên bước đường Hoằng Pháp sau này của Đức Phật, Ngài dễ dàng chinh phục cảm hóa được ngoại đạo, vua quan, các hạng người khác nhau trong xã hội vì Ngài vốn có kiến thứckinh nghiệm về cuộc sống và sinh hoạt với họ kể từ khi Ngài còn là Thái Tử. Cho nên thời này, tùy theo khả năng và sở trường của mỗi người khác nhau, người tu sỹ nếu được huấn luyện và giỏi các ngành xã hội như : giáo dục, tâm lý, hành chánh, tôn giáo học, chính trị,… vẫn tốt và hoằng Pháp thích hợp hơn, có nền tảng vững chắc, đối chiếu liên hệ cuộc sống xung quanh song song với việc trau giồi nội điển Phật Pháp thâm hậu. Như thế hành giả vừa có thể làm ịch lợi cho xã hội thông qua các chuyên môn của mình, vừa gần gũi tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hộicảm hóa họ với Chánh Pháp, xứng đáng với Phật Giáo trong thời hiện đại, Phật Giáo với khoa học, Phật GiáoTôn Giáo tương lai toàn cầu theo như dự liệu của nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein.

Sống trong cung vàng điện ngọc được bao bọc bởi bao nhiêu cảnh đẹp, tốt tươi, hưởng thụ và hạnh phúc nhưng Thái Tử vẫn luôn khắc khoải muốn tìm hiểu cuộc sống của dân chúng ngoài bốn cửa thành. Ngài bao nhiêu lần xin phép vua cha cho dạo ra ngoài thành để tiếp xúc với dân chúng và tìm hiểu đời sống người dân. Cuối cùng vua cha cho phép dạo bốn cửa thành và Ngài liền nhận ra nỗi khổ và thực tế cuộc đời. Đây là bài học sống động cho những ai bon chen, tranh danh đoạt lợi với nhiều thủ đoạn, “tính sao có lợi thì làm và sống chết mặc bay”. Dù có phước sẵn nhưng không mải mê thâu tóm, hưởng thụ cho phần mình mà quan tâm và chia sẻ chung với cuộc sống của mọi người, đó là đặc điểm của các bậc vĩ nhân. Vậy chúng ta càng tiếp xúc, trải nghiệm hiểu thực tế cuộc đời bao nhiêu, càng bớt đắm say với thế gian bấy nhiêu và do đó sẽ dễ tu hơn. Nếu những ai không ngộ ra các bản chất cuộc sống và các pháp hữu vi vốn : “Khổ, Vô Thường, Vô Ngã” rồi ngày mai ta trở về cát bụi thì dễ dính chấp và khó tu. Đó cũng một phần giải thích lý do tại sao người tuổi già đi chùa nhiều hơn tuổi trẻ, bởi vì người lớn tuổi đã từng trải cuộc đời không còn quá khao khát đam mê tìm kiếm nữa và họ không còn háo hức, đắc thắng nữa mà đối diện với tuổi già, sức yếu, những giới hạn của đời người, những khổ đau phũ phàng và một chuyến ra đi bất định…Mục kích cảnh : Già, Bệnh, Chết, Tu Sỹ ( chắc là tu sỹ của Bà La Môn), khiến Thái Tử Tất Đạt Đa trầm tư về kiếp người, về những câu hỏi rất ư là triết học : con người từ đâu đến, sống ở đây để làm gì, rồi chết đi về đâu? Tại sao ai cũng chịu cái quy luật vô thường và tàn phai như thế, có cách gì thoát ra được cái vòng luẩn quẩn sanh già bệnh chết đó không? Những suy tư này có vai trò rất lớn, làm động lực cho Thái Tử xuất gia, đi tìm và ngộ được chân lý sau này.

Sự xuất gia của Ngài là một cuộc thoát ly vĩ đại, xa cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con thơ, ngai vàng, sơn hà, xã tắc, từ người tột đỉnh cao sang, có tất cả để trở thànhhành khất lang thang, không có gì hết ngoài y rách và cái bát khất thực nuôi mạng sống qua ngày. Nếu như chúng ta ở vào vị trí của Ngài, thật khó để chúng ta có thể xuất gia được như Ngài. Đó là hình ảnh một người thiết tha tầm cầu chân lý và không màng gì nữa nơi thế gian này. Xuất gia trong tư thế: có tất cả mà buông bỏ tất cả, hy sinh tất cả những đặc quyền đặc lợi của mình, cắt đứt tất cả mọi ràng buộc thế giantâm nguyện cao cả tìm ra ánh sáng, mang hạnh phúc chân thật đến mọi người. Có nhiều phật tử, khi lo trả nợ tương đối xong thế gian rồi, nhưng có dám buông bỏ tất cả để đi xuất gia không hay là tự tạo và ôm thêm những món nợ mới không đáng có? Ngay cả việc đi xuất gia gieo duyên vài ngày mà họ cũng lo, cũng tính, cũng phân vân đủ thứ. Còn tiếc, còn ham, còn chấp, còn giữ, khó buông vậy thì làm sao mà gần với Đạo? Hạnh phúc là xả ly thanh thản,ban cho chứ không phải hạnh phúc là thâu tóm, hoặc bo bo ôm đồm nắm giữ cho riêng mình.

Khi xuất gia, Ngài đã “xả phú cầu bần”, thân  vàng vóc ngọc của Ngài lại chu du khắp nơi tầm sư học đạo, thiên lý tầm sư từ Lâm Tỳ Ni cho đến núi Tuyết Sơn, Ni Liên Thuyền, Bồ Đề Đạo Tràng,…Ngài đi bộ, gai cào xước hết chân, chảy máu, còn ngày nay chúng ta thì sao? Đúng là : Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (chí sỹ Nguyễn Bá Học). Chúng ta có nhiều phương tiện giao thông thuận tiện nhưng có tận dụng mọi cơ hội để tham vấn học Đạo với các bậc cao nhân, chân nhân, cao Tăng thạc Đức không? Phương tiện internet, DVDs, youtube, facebook,… sẵn có nhiều đó mà mỗi ngày chúng ta học được bao nhiêu bài Kinh? Phương tiện đã có sẵn mà không lo học Đạothực hành, phan duyên trần cảnh, chơi nhiều hơn học, tò mò khám phá thế gian thay vì chân lý giải thoát, đó là phóng dật, dễ duôi, phung phí cơ hội. Chỉ có Trí Tuệ mới là sự nghiệp, mỗi người phải nghe, đọc nhiều, suy tư, thảo luậnthực hành thì mới phát sanh Trí Tuệ. Không ai ban cho Trí Tuệ được, không có Trí Tuệ thì giác ngộ, giải thoát mãi mãi xa vời.

Ngài không thỏa mãn và dừng lại giững chừng khi chưa đạt được mục tiêu đặt ra từ ban đầu. Tâm lý này chúng ta dễ có, sau một thời gian phấn đấu, chúng ta có một số kết quả khả quan nào đó, ví dụ hiểu biết được một số kinh sách, có chùa to, Phật lớn, đệ tử đông, chức vụ lớn,…liền tự cho phép mình “nghỉ giải lao” và hưởng lai rai với lời tự an ủi : dù gì thì mình cũng có cống hiến cho Phật Giáo xưa nay và còn đang tiếp tục giúp cho người khác tu học, dù mình có hưởng thụ lai rai để ổn định, an vui và cống hiến âu đó cũng là điều tự nhiên của một cơ thể sinh vật lý, mình đâu phải là một cái máy, sắt thép vô cảm, chắc cũng không sao. Phiền não tham, sân, si luôn ngủ ngầm, tiềm ẩn và chờ cơ hội thì bùng dậy, trùm phủ lên và phá hủy tất cả.  Trường hợp Bồ Tát Tất Đạt Đa được 2 vị Thầy Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đạt chỗ cao nhất về cảnh giới Vô Sở Hữu XứPhi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiền xác chứng :

“Này đạo hữu Gotama, tôi vô cùng hoan hỉ được có một người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như đạo hữu. Những gì tôi đã hiểu biếtchứng ngộ thì nay đạo hữu cũng đã hiểu biếtchứng ngộ như tôi. Vậy thì đạo hữu hãy ở lại đây cùng tôi dẫn dắt nhóm đạo sĩ này”.

Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục từ giã ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của chân lý cứu khổ độ sanh. Trên đường tu tập, chúng ta hãy cẩn thận xem có thể vướng vào bẫy : Danh – Lợi – Tình bất cứ lúc nào khi chúng ta có được một số phước và sự tôn kính nhất định nào đó. Ngài đã vượt thoát ra tất cả mọi cám dỗ vi tế và “không ngủ quên trên chiến thắng”. Nói theo cách của Ông Steve Jobs, “hãy cứ khát khao và hãy cứ dại khờ”, vẫn mãi khát khao đi tìm chân lý tối hậu và vẫn mãi “dại khờ” vì làm kẻ cô thân chích ảnh, an bần thủ đạo, không hưởng các phước hữu lậu khi đang ở tư thế để hưởng thụ dục lạc sẵn dành xung quanh.

 

Ngài đã trải qua 6 năm tu học miên mật và 49 ngày đêm thiền tọa bất động dưới cội Bồ Đề. Quả thật đúng với câu nói : Đường đi đến thành công không dành cho những người lười biếng và cũng không lót đầy những đóa hoa hồng, hoặc như Tổ Sư Hoàng Bá nói : nếu chẳng bao phen sương buốt lạnh – Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương. Hành giả phải từng giờ từng phút thực hành tu tập, kiên định trên con đường đi, tập khí sanh từ phiền não từ vô thủy đến nay dày bao nhiêu lớp lớp, thì lực phá vỡ nó cũng đòi hỏi phải công phu dày dạn đủ lớn mạnh để làm phản lực xứng tầm. Công việc chính của người tu là tự soi xét lại mình, chuyển hóa thân tâm hướng thiện, hướng thiện, trau dồi Giới Định Tuệ đến ngày công viên quả mãn thì tâm thức sẽ được bừng vỡ khai ngộ với chân lý. Thế giới hiện nay, pháp môn nhiều, hứa hẹn nhiều, phỉnh dụ nhiều nhưng chúng ta hãy đối chiếu lời dạy và pháp môn của họ có giống với những gì mà Đức Phật Thích Ca đã trải qua trên đường tu tập hay không? Nghe thì nghe nhưng chúng ta phải tham khảo đổi chiếu rồi tự mình rút ra kết luận. Nếu pháp môn nào mà không bao hàm Giới Định Tuệ và chuyển hóa thân tâm, trừ phiền não Tham Sân Si thêm Từ Bi Hỷ Xả thì coi chừng pháp môn ấy lệch lạc và mị dân. Tấm gương Ngài đã vượt qua mọi loại ma chướng là lời cảnh tỉnhđộng lực cho chúng ta mỗi khi gặp nghịch duyên, trở ngại và chấp nhận chúng là những điều tất yếu phải đối diệnvượt qua. Những thử thách đó chúng ta sẽ gặp thôi, sớm hoặc muộn, đúng ra chúng ta phải cảm ơn nghịch cảnhma chướng giúp chúng ta có cơ hội bồi dưỡng công lực, tôi luyện và trưởng thành. Khi hành giả trước sau son sắt : “ Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, “thắng một vạn quân địch không bằng tự thắng được lòng mình”, nếu không có nội ma, tâm ma mở đường dẫn lối thì thế lực ma quân nào có thể làm lung lay hay quật ngã được ta?

Khi Sao Mai vừa mọc, canh ba, đêm thứ 49 dưới cội Bồ Đề Ngài chứng tam minh lục thông, ngộ đạt chân lý tột cùng và lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác, Phật – Thế Tôn. Khi chúng ta chưa có gì liên quan đến Tam MinhLục Thông, còn “phàm phu chay” thì có gì tự cao tự đắc? Hãy đề phòng tính tự mãn trong việc tích lũy những lời dạy của Như Lai rồi pha trộn hỗn tạp rao bán tô bồi cho bản ngã và vì mục tiêu lợi dưỡng. Khi hành giả chứng ngộ thì thông tỏ vạn phápchân lý lưu xuất từ nội tâm tịch tịnh thấu đạt một cách tự nhiên, còn những uy nghi đạo mạo cố chứng tỏ ta là người thông thái, hơn người, ta là thánh nhân, siêu nhân, “ngồi riêng một chiếu” trong khi phiền não đầy người, rối rắm ngổn ngang – đó chỉ là màn diễn rẻ tiền ảo tưởng lừa mình, lừa người. Bệnh ảo tưởng và hoang tưởng lâu ngày tưởng là thật đến nỗi chính họ cũng tin họ có năng lực siêu tuyệt, độc nhất. Thuyết giảng nhiều, nhưng nếu không thông, chính mình trước sau mâu thuẫn thì làm sao người nghe được sáng tỏan tâm tu tập? Hội Đồng Điều Hành và Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo các quốc gia cần phải có Ban Chuyên Môn nghiên cứu kỹ lưỡng và thẩm định giá trị chân lý trong bài “Pháp Thoại” của nhiều vị “giảng sư” để tránh tình trạng ảo tưởng chứng đắc, siêu tuyệt độc nhất với những lời sấm phán với tâm thức đảo lộn gây hoang mang bao nhiêu người Phật tử - nhất là ở thời công nghệ thông tin, tốc độ lây lan quá nhanh, khó lòng kiềm chế. Do đó, các vị giảng sư ( trong đó có tôi) cần phải nên không ngừng thực tập, có chiều sâu nội điểnthực chứng chứ không đơn thuần cậy vào tài xảo ngôn, thông minh, duy lý của mình, có sự khác biệt giữa ngộ nhập chân lý và đoán mò tán diễn chủ quan.

Sau khi chứng ngộ dưới cội Bồ Đề, bước đường vân du giáo hóa hơn 45 năm của Ngài để lại cho chúng ta rất nhiều bài học. Trước hết đó là “nhạo thuyết” (ưa thích nói Pháp). Chúng ta học hỏi tinh thần này không phải đợi lên bàn giảng sư với chuông trống bát nhã, hai hàng cung nghinh, khay lễ đưa đón mới là “Pháp Thoại” mà trong cuộc sống một ánh mắt, một nụ cười, một lời khuyến khích sẵn sàng gieo duyên đến với mọi người, mọi nơi một cách bình đẳng, tự nhiên không tính toán. Những câu nói nghe có vẻ “rất thường tình” nhưng hàm chứa chất liệu giáo Pháp và đưa ra đúng nơi, đúng chỗ, có tác dụng trị liệu chuyển hóa thân tâm người nghe theo chiều hướng tốt đẹp, đó là hoằng Pháp. Bây giờ các giảng sư “nổi tiếng” quen diễn ở “xô lớn” (show lớn) không chấp nhận diễn ở những “xô nhỏ” ít người nghe, hoặc thờ ơ, vô cảm, làm biếng nói với từng người “thường dân” đơn lẻ và thậm chí cái bệnh ngôi sao nổi lên, người ấy cố tình tạo cảm giác “khó gặp”, có vậy mới hiếm và quý. Ngày xưa đức Phật ngồi thiền quán sát cơ duyên từng chúng sanh để chủ động đến tiếp cận họ và hóa độ chứ có đâu mà mọi người chầu chực chờ gặp Pháp sư như chầu cửa quan? Tất nhiên tôi hiểu, những vị đó tự ngụy biện hoặc an ủi mình là : thời giansức lực có hạn, không thể “xài phung phí vô tư” mà để dành “làm việc lớn”, lợi ích cho nhiều người và lâu dài. Thế nhưng, tính toán quá lại nảy sinh những tác dụng phụ mang tính cách phân biệt đối xử, mất đi tính Từ Bi Hỷ Xả hòa ái, gần gũi của tu sỹ, vốn là hành giả hành khất lang thang, tùy duyên hóa độ vô cầu. Ngược lại, cũng không nên mang cái bệnh “giảng sư”, ở chỗ nào mình cũng làm “Thầy” chỉ đạo, giảng giải quá nhiều, không hợp với thời gian, không gian, đối tượng. Cái gì đặt đúng nơi, đúng chỗ, hợp lý, vừa phải thì cái đó đẹp và có giá trị. Tính khế thời, khế lý, khế cơ cần phải được cân nhắc, áp dụng một cách nhuần nhuyễn cùng với tâm hạnh Từ Bi muốn chuyển hóa người khác tốt hơn và góp phần cho Pháp luân thường chuyển.

Một bài học cuối và tổng quát nhất đó là mọi sinh hoạt của người tu, chùa chiền, giáo hội, Tăng đoàn cần được tham chiếu và kiểm nghiệm từ hành hoạt chính cuộc đời Đức Phật, ý nghĩa sâu xa từ biểu hiện của Ngài, từ giáo Phápgiới luật do Ngài ban hành va sinh hoạt của Tăng già thời Đức Phật. Nếu ai đã có được nền tảng và có hệ quy chiếu đó thì chúng ta rất an tâm, phương tiện tùy duyên bất biến trong sinh hoạt, học Pháp, hành Pháp, hộ Pháp, hoằng Pháp. Đến lúc đó thì chúng ta có thể : “y Pháp bất y nhân” “Dù ai nói ngả nói nghiêng – Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Nay chúng ta ở thời cách Phật hơn 25 thế kỷ thì có Chánh PhápTượng Pháp. Trách nhiệm sàng lọc, chọn lựa, kế thừa và phát triển là ở nơi mỗi hành giảTăng già. Tự lực đi đôi với tha lực, khi tự lực phát triển đến mực độ cứng cáp, vững chãi thì lúc đó mới tận dụng được tha lực một cách tốt nhất mà không bị “cuốn theo chiều gió”. Tôi không phải bi quan hoặc nói quá, chỉ là lời nhắc nhở chung và cho chính mình về sự trá hình lẩn khuất và phát huy tác dụng của Tham Sân Si phiền não trong ta, về “vàng thau lẫn lộn” ở cõi Thánh Phàm đồng cư, về Tượng PhápMạt Pháp mà chính đức Phật thường chỉ dạy, về trách nhiệm của mỗi người khi được mệnh danh là Phật Tử, đối với nhân quả, tu học, Như Lai sứ giảgiải thoát.

Kỷ niệm Phật Đản Sanh không phải trong một ngày hoặc một tháng Tư là đủ mà Phật Đản cần luôn thể nghiệm từng thời khắc bên trong chúng ta : khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến. Hãy trở về, phát huy và sống với ông Phật bên trong của mình và mang đến cho đời nhiều nội dung Phật chất. Đó là tinh thần tri ân, báo ân, bổn phận của người con Phật trong lễ sinh nhật của Bổn Sư Từ Phụ như lời dạy của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông :

“Bụt ở tronng nhà, Chẳng phải tìm xa,

Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt,

 Chỉn mới hay chính Bụt là Ta”.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú)

 

Mùa Phật Đản, PL 2561

Thích Đồng Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2655)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2342)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2654)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2432)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3246)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2317)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2408)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2191)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3045)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2643)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2703)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2983)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2551)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2584)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4080)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3057)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3301)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2498)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2800)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2995)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2865)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2604)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2626)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3187)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2594)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2681)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3262)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2045)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2899)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2936)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2700)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2507)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2775)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant