Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chấp Tay Lạy Phật

05 Tháng Bảy 201712:45(Xem: 16995)
Chấp Tay Lạy Phật

CHẮP TAY LẠY PHẬT


Huệ Trân


          Chắp tay lạy Phậtcử chỉ quá thông thường của người Phật tử, có chi khó hiểu đâu mà cần băn khoăn suy nghĩ. Đa số chúng tôi đều tưởng thế, cho đến một buổi nghe pháp, giảng sư hỏi đại chúng:

          -Tại sao lạy Phật lại chắp tay?

          Chúng tôi đồng loạt trả lời:

          -Thưa Thầy, chắp tay để bày tỏ lòng cung kính Phật.

          Nhưng khi Thầy hỏi: “Còn gì nữa?” thì cả đạo tràng im lặng, ngơ ngác nhìn nhau, không ai tìm được thêm một lý do nào nữa vì nghĩ, lý do cung kính Phật là đúng quá rồi!

          Khi ấy, Thầy giơ bàn tay trái trước đại chúng và hỏi:

          -Đây là tay gì?

          Dễ quá! mọi người nhất loạt trả lời:

          -Dạ, tay trái ạ.

          Thầy giơ tay phải, hỏi:

          -Còn đây là tay gì?

          Lại dễ nữa, nên không ai chậm trễ lên tiếng:

          -Dạ, tay phải ạ.

          Bấy giờ, Thầy chậm rãi chắp hai tay vào nhau, thành búp sen và nhẹ nhàng hỏi:

          - Tay gì đây?

          Lúc này thì đại chúng nhường nhau, người nọ chỉ mong người kia trả lời cho mình, nhưng câu nào cũng chỉ ấp úng:

          -Dạ … tay …. A …. tay …..

          Vẫn giữ tay búp sen, Thầy giải thích:

          -Khi chúng ta chắp hai tay vào nhau thì không còn tay phải, không còn tay trái nữa, đúng không? Hai bàn tay, phải và trái chỉ còn là một. Một búp sen thơm. Cũng thế, khi chúng ta nhiếp tâm chánh niệm thì tâm phân biệt phải trái, hơn thua, xấu đẹp. giầu nghèo v…v.. không còn nữa mà chỉ còn tâm an lạc.

 

Không một cử chỉ nào trong đạo mà không hàm chứa lời dạy sâu sa. Vào chùa, chúng ta quỳ xuống là đang thực hành hạnh khiêm cung, vô ngã, không còn Cái Ta kiêu mạn nữa. Sau đó là chắp tay, xả tâm phân biệt, tự động cảm thấy thân tâm thoải mái.

Ngay sau hai cử chỉ đơn giản đó, chúng ta lập tức đạt được sự an lạc mà thường ít ai quán chiếu vì sao cứ đến chùa là tiêu tan phiền não.

 

          Bài giảng hôm đó xoay quanh đề tài Pháp Hiện Thực.

Pháp kề cận chúng ta hàng ngày, trong từng hành động chánh niệm. Cứu một con kiến, rải một hạt cơm cho con chim cũng là phát khởi tâm TỪ BI. Thực hiện được tâm từ bi là đã tạo cho mình công đức, chứ không đợi xây chùa to tượng lớn mới có công đức.

HỶ cũng thế, thành tâm chia vui với cái vui của người chính là ta đang diệt trừ tâm tỵ hiềm, ganh ghét.

Rồi XẢ bỏ tâm sân hận chính là đang quét dọn bụi bặm ô nhiễm để thấy được gương tâm sáng trong.

Chúng ta có thể thực hành Tứ Vô Lượng Tâm TỪ BI HỶ XẢ ngay trong sinh hoạt hàng ngày nếu ta biết giữ chánh niệm.

 

          Mọi sự thành công hay thất bại dường như đều khựng lại ở chữ NẾU. Làm sao biến chữ “nếu” này hướng đến điều ta mong cầu?

          Không có gì dễ, không có gì khó, nhưng giữa dễ và khó có một điểm chung, là quyết tâmkiên trì.

          NẾU QUYẾT TÂMKIÊN TRÌ  sẽ đi đến thành công, lâu hay mau tùy môi trường và hoàn cảnh.

          NẾU KHÔNG QUYẾT TÂMKIÊN TRÌ, chắc chắn sẽ đi đến thất bại mau lắm!

 

          Trong pháp môn Tịnh Độ, hành giả nào cũng mong niệm Phật tới Nhất Tâm Bất Loạn. Nhưng, để niệm niệm nối nhau trong chánh niệm thì   “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên đắc sanh bỉ quốc” (*), chẳng phải chút ít  căn lành, phước đức mà sanh về Cõi Tịnh được.

 

          Giảng sư lại nhắc rằng, khi chúng ta tụng kinh, niệm Phật chính là ta đang trì giới.

          Phật tử tại gia thường thọ tam quy ngũ giới. Tam quyquay về với Phật, với Pháp, với Tăng. Ngũ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu.

          Vậy thì, khi chúng ta ngồi trước ban thờ Phật, một tay chuông, một tay mõ, mắt nhìn vào trang kinh, miệng xướng tụng lời kinh, tai nghe âm thanh những lời Chư Phật, Chư Bồ Tát giảng dạy thì thân, tâm còn chừa chỗ nào để có thể phạm giới? Chỉ còn Ý, như con vượn chuyền cành nhưng nó lại bị Thân và Tâm đang tụng kinh niệm Phật cột giữ lại.

          Khi chưa đủ quyết tâmkiên trì thì Ý có thể dễ dàng dẫn ta lang thang vào vọng tưởng; nhưng khi quyết tâm dần tăng, kiên trì dần vững là khi con-vượn-ý bị khuất phục dần.

 

          Thử áp dụng bài pháp vào thực tế đời-thường, như khi đối trước thị phi ác ý, hãy tạm kềm tâm sân hận rồi lặng lẽ chắp tay.

          Quán chiếu hai lòng bàn tay đang úp vào nhau, ta thấy ngay búp sen thơm ngát. Chính búp sen này tạo được nguồn năng lượng tuy vô hình nhưng rất lớn, vì hình ảnh búp sen sẽ giúp ta chuyển hóa sân hận thành từ bi.

 

           Khi cảm nhận hương sen đó từ hồ-tâm-ta vừa hé nở, chứ chẳng phải từ cõi nước xa xôi nào, ta sẽ lập tức có được niềm hoan lạc vô bờ, vì ta đang thấy ta đã thành công trong việc ngăn chặn tâm sân hận bằng hành động của tâm-từ.

          Sự ngăn chặn đó là nở sen thơm thay vì bùng lửa giận.

          Sau đó sẽ còn lại gì?

          Đức Phật dạy rằng “Thị phi do kẻ khác ném tới, ta không nhận, tất sẽ quay về người gửi.”

   

          Nếu không có cơ may được nghe giảng-sư khai triển và chỉ dẫn thực hành những lời Phật dạy thì hành giả dễ nản chí khi tu hoài mà an lạc đâu không thấy, chỉ phiền não bủa vây mỗi lúc mỗi chập chùng thêm.

         

          Xin cùng nhau chia xẻ những đốm lửa soi đường này, để bước chân tìm về trung-đạo thêm tự tin và vững chãi.

 

Huệ Trân                                

(Như-Thị-Am, Mùa trăng tháng 7)

(*) Kinh A Di Đà

            

              

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 731)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 831)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 792)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 751)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 763)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 762)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 661)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 919)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1239)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1411)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1143)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1465)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 931)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 841)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 944)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 959)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 930)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 963)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1082)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 906)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1052)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1052)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 971)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1011)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 927)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1087)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1036)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 957)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1056)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 913)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1015)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 955)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1201)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 988)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1073)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1229)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1667)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1237)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1310)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1184)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1041)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 999)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1029)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 876)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1546)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1427)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1404)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1342)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1445)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant