Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nắng sẽ lên

02 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13541)
Nắng sẽ lên

 
Truyện ngắn:

Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ. Trời còn sớm nhưng bến sông đã vắng, im lìm lặng lẽ dưới lớp mưa bụi giăng giăng.

Tôi yêu con sông này, bởi sự hiền lànhhoang sơ của nó. Dòng sông đã để lại trong tôi thật nhiều dấu ấn về những tháng ngày thơ ấu. Nơi đây tôi đã chứng kiến bao biến động thăng trầm của những phận người, giống như dòng sông lúc lở lúc bồi, quằn mình gánh chịu tất cả mọi vui buồn của trời đất.

– Mấy năm rồi Nguyên Chương không về nhỉ?

Nguyên Hải khẻ hỏi khi tôi đang mãi nhìn lớp khói sóng đang bốc nhẹ trên mặt sông.

– Từ sau ngày Thầy mất. Tôi đáp.

– Rứa là sáu năm. Hải nhẩm tính rồi nói.

Thì ra Hải đang nhớ về Chương.

Tôi và Hải mỗi năm gặp nhau ở chùa một lần vào dịp cuối năm. Đứa ở Huế ra, đứa ở Nam về. Mỗi lần như vậy, chiều nào tôi và Hải cũng kéo nhau ra gác chuông, ngồi đấy nhìn dòng sông và kể với nhau một vài chuyện gì đó mà mỗi người đã gặp trong những tháng ngày rong ruổi. Và mỗi lần như vậy, chúng tôi không thể không nhắc đến Nguyên Chương, một người bạn đầy cá tính với cõi lòng luôn mang nặng buồn khổ.

* * *

Tôi, Hải và Chương xuất gia cùng một năm. Tôi và Chương cùng tuổi còn Hải nhỏ hơn một. Hải người cao ráo, khôi ngô. Khuôn mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười như chưa bao giờ biết buồn. Hải học sau tôi và Chương một lớp. Hải chăm chỉ và học khá giỏi. Ba năm học Trung học, năm nào Hải cũng nhận phần thưởng kèm tờ giấy khen biểu dương học sinh tiên tiến. Thầy tôi rất hài lòng về Hải, nhưng không phải ở sở học mà ở sự vô tưtrong sáng của chú ấy. Ở chùa, Hải siêng năng cần mẫn; học hành cũng như chấp tác khi nào cũng hết mình. Hải sống không hề làm ai giận và cũng chẳng hề giận ai. Hải ít bận lòng đến bất cứ điều gì, tự tại như một người đắc đạo. Hải có niềm tin rất mãnh liệt vào đạo, và chính niềm tin đó đã giúp cho Hải cảm thấy an ổn khi bước trên con đường mà mình đang đi.

Những tính cách của Hải hoàn toàn không có nơi Chương. Chương trầm lặng, ít nói; đôi mắt sâu buồn, xa xôi. Ở Chương phảng phất chút lãng mạn của một thi sĩ, và lẫn chút tư duy khô người của một triết gia. Chương học giỏi, thông minh, học gì làm gì cũng tỏ ra xuất sắc. Nhưng Thầy tôi chưa bao giờ hài lòng về điều đó. Nét mặt trầm buồn và những tiếng thở dài kín đáo của Chương đã làm thầy tôi bận lòng.

– Hình như con có điều chi không vui? Một hôm Thầy tôi hỏi.

– Bạch Thầy, không ạ! Chương trả lời.

– Răng con lại tự dối lòng mình! Cuộc sống ở chùa không đem lại cho con chút niềm vui nào, phải không?

Chương cúi đầu, im lặng.

Chương ham học và học tất cả những gì mình thích. Chương đi học đàn, khi thầy tôi biết được và ngăn cấm thì quay sang học vẽ. Thầy tôi không tán thành nhưng cũng không phản đối. Chương học khá nhanh và vẽ đẹp. Bức tranh đầu tiên Chương vẽ là dòng sông trước chùa. Bức tranh buồn bởi việc biểu đạt cảnh tượngsử dụng gam màu. Thầy tôi nhìn bức tranh, lắc đầu.

Chương thích làm thơ, và làm cũng khá hay. Thầy tôi rất bực mình khi đọc thơ Chương:

– Răng con lại ưa than vãn vậy, rồi con sẽ khổ cả đời. Cái khổ do những vết thương bởi chính con tạo ra cho mình chớ không phải do ai gây ra cả. Thầy không muốn đọc những bài thơ thế này, càng không muốn con phí sức vào những bài thơ vô bổ đó… Người ta thích cải đổi thế giới, cải đổi cuộc đời mà không thích cải đổi tâm mình. Than thân trách phận liệu có ích gì?

Chương có thói quen thích ra ngồi ở lầu chuông để ngắm sông vào lúc hoàng hôn, đôi khi lại lang thang xuống tận bờ sông. Chương thường làm như vậy một mình nhưng thỉnh thoảng lại rủ tôi và Nguyên Hải cùng đi. Có lần Chương hỏi tôi:

– Chú có thích con sông này không?

Tôi cười. Chương nói tiếp:

– Người ta có thể học hỏi được rất nhiều từ dòng sông đó, chú ạ.

Nghe vậy, Hải cười và nói xen vào:

– Và anh cũng đang học hỏi từ dòng sông này - để rồi anh luôn cảm thấy khổ sở, bất an chớ gì? Anh có vẻ giống triết gia đó, chắc nhiễm Hermann Hesse rồi.

– Tui không nhiễm ai, cũng không thích bắt chước ai cả. Thầy thường dạy tui phải nên học theo cách sống của chú, nhưng tui không thể. Mỗi người đều có một cách sống

riêng, phải không?

Hải vô tư và ít hiểu Chương. Hải dễ dãi nghĩ rằng người ta có thể rủ sạch mọi muộn phiền một cách nhẹ nhàng như rủ một chiếc áo bụi. Hải không hiểu vì sao Chương lại buồn khổ như vậy khi cuộc sống này không có gì để Chương phải buồn cả! Hải đâu biết rằng, nỗi khổ đau của con người rất đa dạng, dễ sinh khởi nhưng lại khó đoạn trừ. Không phải chỉ vài lời khuyên, vài lời động viên là có thể thay đổi được Chương. Chừng nào những hạt giống của khổ đau còn ngự trị, còn được nuôi dưỡng, và chừng nào tư tưởng của Chương chưa được khai thông thì nỗi đau đó vẫn còn xâm chiếm cõi lòng Chương. Thay đổi tư tưởng còn khó hơn dời núi lấp sông. Hải ít hiểu Chương. Chương biết điều đó, nên đối với Hải, Chương luôn xem như một người em hơn là một người bạn. Cho dù thế, Chương vẫn rất thương Hải. Và cả ba chúng tôi đều sống chung với nhau một cách êm ấm, hòa thuận.

Rồi biến cố xảy ra. Thầy chúng tôi qua đời. Ngày đó Hải khóc lu loa như một đứa trẻ. Chương vốn đã trầm lặng nay càng trầm lặng hơn; đôi mắt quầng thâm, mặt đanh lại một cách đau đớn, chịu đựng. Tôi buồn đau vì sự ra đi quá vội vàng của Thầy tôi và xót xa nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày sắp đến, nhưng lòng tôi càng nhói đau hơn khi nhìn thấy Chương. Tôi nghĩ sau biến cố này thế nào Chương cũng hoàn tục. Nhưng sự việc đã không xảy ra như vậy.

Sau đám tang Thầy tôi, chúng tôi được sắp xếp cho vào Huế học Trung cấp Phật học. Hải vâng lời một cách ngoan ngoãn. Tôi chưa muốn đi nên lấy cớ qua chung thất Thầy rồi sẽ vào. Chương thì trầm ngâm suy nghĩ, không đồng ý cũng không từ chối. Trước ngày Hải vào Huế, chúng tôi gặp mặt và nói chuyện với nhau thật nhiều. Sáng sớm hôm sau, tôi đạp xe chở Hải lên bến xe. Hải dặn tôi:

– Anh phải vào Huế nghe. Em chờ đó.

Tôi cười. Xe chạy. Chợt thấy lòng buồn khôn tả…

Hai tháng sau, một chiều, Chương rủ tôi ra sông chơi. Con sông mùa hè nước cạn và trong vắt. Những đám mây bồng bềnh trôi vô định trên không in hình xuống dòng nước, lung linh, kỳ ảo.

– Chắc tui phải đi chú ạ. Chương mở lời.

Tôi im lặng một lúc rồi hỏi:

– Chú định vô Huế hay đi mô?

– Tui không vô Huế. Có lẽ tui sẽ vô Sài gòn và thi vào một trường đại học nào đó.

– Tui không dám khuyên chú vì đã quá hiểu chú, nhưng nhớ lại lời Thầy, tui cảm thấy ái ngại. Không biết chú vô trong nớ rồi sẽ ra răng? Trông chú lúc mô cũng có vẻ buồn khổ, không biết khi mô mới thấy chú vui lên được?

Nghe tôi nói, Chương thở dài:

– Tui thật có lỗi với Thầy và với chú quá. Nhưng chú nì, khổ đau có phải là một cái gì đó xấu xa lắm không? Đôi khi tôi nghĩ đau khổ cũng cần thiết cho con người. Tình thươnglòng vị tha dễ nảy mầm trên khổ đau hơn là trên hạnh phúc… Nếu Siddhattha không biết chi đến khổ đau thì có lẽ không bao giờ có đạo Phật. Nói rứa không phải để biện hộ cho mình mô nghe…

Chương nhìn tôi, cười và nói tiếp:

– Chú yên tâm, một ngày nào đó chú sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn khác, tột đỉnh của khổ đau là khởi điểm của giải thoát mà…

– Tui thiệt không muốn nghe thứ triết lý đó chút nào. Nhưng thôi, cứ hy vọng như rứa đi.

Chương vỗ vai tôi và cả hai rời bờ sông.

Hôm sau, Chương vào Huế để thăm Hải. Tôi ở nhà sắp xếp hành lý cho Chương. Chương ở Huế ra, tôi hỏi:

– Hải ra răng?

– Khỏe, nhưng khóc như một đứa con nít. Chương đáp, mặt quay đi.

Hai ngày sau, tôi lại chở Chương lên bến xe. Chương nhìn tôi, hỏi:

– Khi mô chú đi?

– Tui chưa tính. Tôi trả lời.

– Tui không biết nói chi với chú lúc ni cả…

Chương nói, mắt đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi thấy Chương xúc động như vậy.

* * *

Gió từ sông thổi vào càng lúc càng mạnh, trời mưa lớn và rét đậm hơn. Hải vừa xoa tay vừa nói:

– Sắp hết lạnh rồi đó. Thường khi mô cũng rứa, cuối một đợt rét trời thường lạnh hơn lúc bắt đầu. Tết thế nào cũng nắng.

Thật vậy ư! Tại sao trời phải rét đậm hơn trước khi bắt đầu nắng? Sao tôi không biết điều đó nhỉ. Trời đất kia cũng phải đau đớn khi chuyển giao sao!

Tôi lại nghĩ đến Chương và những gì chú nói với tôi ở bờ sông trước khi ra đi. Tôi tin lời Chương. Một ngày nào đó, tôi sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn mới, một Nguyên Chương không còn những khổ đau ngự trị, một Nguyên Chương như cơn nắng lên sau những ngày đông mưa rét.

Tôi nhìn ra sông rồi nhìn Hải. Hải cười, nụ cười rạng rỡ, ấm áp. Tôi cảm thấy lòng mình dịu lại. Vậy là sắp hết rét, rồi nắng sẽ lên và mùa xuân sẽ về.

Nguyên Hiệp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2718)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2318)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2781)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2565)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2674)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2558)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2384)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2685)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2461)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3289)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2338)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2431)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2564)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2484)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2562)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2243)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2608)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3077)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2671)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2739)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3030)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2582)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2629)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4142)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2794)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3096)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3333)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2306)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2536)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2831)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3023)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2888)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2638)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2650)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3213)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2679)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2328)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2416)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2512)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2620)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2712)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2776)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3307)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2577)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2144)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2632)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2123)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2900)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2998)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant