Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tất Cả Chúng Sinh Là Mẹ

11 Tháng Mười 201915:36(Xem: 4906)
Tất Cả Chúng Sinh Là Mẹ
TẤT CẢ CHÚNG SINH LÀ MẸ

Thị Giới

Con Đường Chư Phật Đã Dạy


Quán tất cả chúng sanh là mẹ, là một pháp quán trong việc phát triển tâm Bồ-đề.

Lisa Erckson, một hành giả Phật giáo Kim Cang Thừa và Thiền, viết:

“Đây là một giáo lý sâu xa, thoạt nhìn qua thấy như nói về việc tái sanh, tuy nhiên thật sự nó rộng lớn hơn. Nó giúp chúng ta nhận ra sự kết nối của chúng ta với tất cả chúng sanh, và qua đó đánh thức tâm từ bi tự nhiên của chúng ta, và nó đẩy chúng ta về hướng giác ngộ”. (All beings have been our mother).

Ngài Geshe Kelsan Gyatso hướng dẫn việc phát triển tâm Bồ-đề bằng việc thiền quán về sáu điều, mà theo ngài được truyền bá sâu rộngẤn ĐộTây Tạng, như sau:

a. Coi tất cả chúng sanh là mẹ.

b. Nghĩ nhớ đến tâm từ mẫn của tất cả những bà mẹ chúng sanh.

c. Đáp đền sự từ mẫn này.

d. Phát triển lòng thương yêu.

e. Phát triển tâm đại từ bi.

f. Thực hành đại nguyện (Bồ-đề tâm).

(Teachings on Kindness to Mothers from: Geshe Kelsan Gyatso. Meaningful to Behold: View, Meditation and Action in Mahayana Buddhism. An oral commentary to Shantideva’s A Guide to the Bodhisattva’s Way of Life (Bodhicharyavatara).

Theo giáo lý nhà Phật, chúng ta và tất cả chúng sanh đã lăn lộn trong vố số cuộc luân hồi, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm cuối. Vì vậy số mẹ sinh ra chúng ta cũng vô tận. Và nói như Đức Dalai Lama, chúng ta không biết chắc chúng sanh nào không phải là mẹ của chúng ta trong quá khứ:

“...suy nghĩ về những kiếp sống không có khởi đầu trong vòng tròn hiện hữu này, và rằng qua nhiều kiếp sống bạn đã tùy thuộc vào những người mẹ. Không có một chúng sanh nào có thể chắc chắn rằng không phải là mẹ của bạn trong quá khứ”. (Developing the Mind of Great Capacity, published in Shambhala Sun magazine).

Và ngay trong hiện tại, chúng ta đã và đang được sanh ra bằng toàn thể vũ trụ, thể chất cũng như tinh thần. Thân thể, tâm hồn, trí óc của chúng ta được nuôi dưỡng bằng thực phẩm hữu hình và vô hình của toàn thế giới hay nói rộng ra là toàn thể vũ trụ. Chúng ta được nuôi dưỡngsinh hoạt bằng vô số nhân duyên trong toàn vũ trụ. Cả vũ trụ là mẹ của chúng ta. Tất cả chúng sanh là mẹ của chúng ta.

Trong cơ thể của chúng ta, có nồi cơm điện từ tay những người thợ, nhà phát minh, nhà sản xuất, kỹ sư... nhiều nơi thế giới. Các loại thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể và trí óc của chúng được làm ra do nhiều bàn tay và được trao đổi khắp thế giới. Chúng ta hít thở không khí được trao đổi với tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Đời sống tinh thần phong phú của chúng ta có được từ những khám phá, sàng lọc, trao truyền từ khắp nơi trên thế giới, trải qua nhiều thế hệ...

Tóm lại, tất cả chúng ta tuy là riêng lẻ và độc lập, nhưng đồng thời, tất cả chúng ta gắn bó tương quan nhau. Chúng ta là một. Chúng ta thật sự là con của tất cả chúng sanh, mà cũng là mẹ của tất cả chúng sanh. Trong mỗi chúng ta có tất cả chúng sanh. Trong mỗi và tất cả chúng sanhchúng ta.

Nói riêng về mẹ:

Trong kinh Kinh từ (Metta Sutta), Đức Phật dùng tâm người mẹ để dạy các vị Tỳ-kheo, nói lên tình thương bao la sâu thẳm của người mẹ:

“Giống như người mẹ trong khổ nạn của cuộc đời,

Thương yêubảo vệ con trai duy nhất của mình.

Cũng vậy, vị Tỳ-kheo tu tập tình thương rộng lớn

Đối với tất cả chúng sinh...".

Trong kinh Samyutta N., I. p. 37, chúng ta được đọc: “Một lần có vị trời đến hỏi Đức Phật: ‘Ai là người thân thiết nhất trong gia đình?’, Đức Phật trả lời không do dự: ‘Mẹ là người thân thiết nhất trong gia đình’”.

Khi cảm nhận được tình thương và những ân đức sâu dày của người mẹ, và biết rằng tất cả chúng sanh đều đã từng là mẹ của mình, đã chăm sóc bảo bọc mình qua vô lượng kiếp, chúng ta cảm nhận được lòng lân mẫn sâu xa của tất cả chúng sanh, thấy có bổn phận phải đáp đền. Và khi biết rằng những người mẹ của mình đang đau khổ trong sinh tử luân hồi, có người vì bảo vệ mình mà tạo nghiệp ác phải đọa vào ác đạo, dù là người bình thường cũng không thể cam tâm.

Theo kinh Tăng chi bộ, công ơn cha mẹ không thể đáp đền bằng hạnh phúc thế gian, mà chỉ có thể đáp đền bằng việc hướng cha mẹ đến con đường hành thiện giải thoát:

Có hai hạng người, này các Tỳ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỳ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỳ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha. (Tăng chi bộ kinh, HT.Thích Minh Châu, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng).

Một con đường để cứu thoát cho tất cả những người mẹ quá khứ cũng như hiện tại và tương lai của chúng taquy y Tam bảophát tâm Bồ-đề, tâm hướng về sự giác ngộ để cứu độ chúng sanh. Đó là con đường duy nhất - đạt được trí tuệ toàn mãn và từ bi toàn khắp - để tự cứu và cứu những chúng sanh khác.

Ngài Karmapa thứ 17 có lời khuyên cho chúng ta:

“Khi chúng ta tu tập thiền quán về từ bi, nếu chỉ cảm nhận từ bi ở trong tâm thì chưa đủ. Chúng ta cần đẩy sự tu tập đó đến mức độ sâu nhất có thể, chúng ta cần phải quán chiếu về sự đau khổ của chúng sanh trong sáu đường luân hồi. Những chúng sanh đang chịu sự đau khổ cùng cực này cũng là những cha mẹ của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

chúng ta liên hệ mật thiết với tất cả chúng sanh, chúng ta có thể tiến xa hơn vào mối liên hệ đó để mang đến lợi lạc cho họ. Mối liên hệ tuyệt vời nhất chúng ta có thể thực hiện là trau dồi lòng từ bi đến với họ và nghĩ cách làm cho họ giảm bớt khổ đau. Quán chiếu mối quan hệ giữa chúng ta và họ, chúng ta phải tiến đến một mức độ không thể chịu được khi thấy họ phải chịu sự đau khổ lâu hơn. Lòng từ bi lớn lao này rất quan trọng. Không có nó, chúng ta có thể cảm nhận từ bi trong tâm chúng ta, nhưng cảm nhận này sẽ không làm phát sinh sức mạnh toàn bộ của từ bi. Nó không thể tạo ra nền tảng một sự tu tập toàn diện.” (“Sức mạnh của đại từ bi - Buddhadharma Summer 2008).

Tóm lại, quán tất cả chúng sanh là mẹ cho chúng ta bước vào tánh nhất thể bình đẳngđại bitánh Không để tự lợilợi tha, đồng thời trả ơn cho tất cả những người mẹ trong quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta. Nhất thể là chỗ mà trong sâu thẳm của mỗi chúng sanh đều hướng đến trong ý chí tìm về sự toàn vẹn. Nhu cầu hợp nhất, nhu cầu một là nhu cầu của tất cả chúng sanh. Chỉ nơi đó mới thật sự có giải thoát, bình an.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 701)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 785)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1105)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 998)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1343)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 809)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 824)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 804)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 836)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 859)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1016)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 960)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 911)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 886)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1147)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 918)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1158)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1619)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1487)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1368)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1383)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant