Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Tự Tử Dưới Góc Nhìn Của Phật Giáo

22 Tháng Bảy 202018:12(Xem: 5491)
Vấn Đề Tự Tử Dưới Góc Nhìn Của Phật Giáo

Vấn Đề Tự Tử Dưới Góc Nhìn Của Phật Giáo

Thích Trung Định

Hoa Vô Ưu

Trong cuộc sống đời thường có nhiều người vì phải đối diện với những bế tắc, khổ đau cùng cực không thể vượt qua được để rồi tìm đến cái chết xem như một giải pháp duy nhất mà họ có thể lựa chọn để thoát khỏi tình cảnh đen tối trong hiện tại. Do sự phẩn uất cao độ, lý trí mù mờ, hoặc bế tắc trong đời sống nên nhất thời họ hành động sai lầm dẫn đến sự kết liễu bản thân bằng cái chết. Cái chết này kéo theo nhiều hệ lụy cho người thân cũng như xã hội.

Theo thống kê của Tổ Chức Y tế thế gới mỗi năm có hơn 1.500.000 người tự tử. Nhật bảnquốc gia có số lượng người tự tử cao nhất, mỗi ngày có chừng khoảng 90 người. Hoa Kỳ 50 người, Pháp 33 người... Thống kê cho thấy rằng số lượng người do vì bế tắc mà tìm đến cái chết tự tử nhiều hơn số lượng người chết trong các cuộc chiến tranh, khủng bố bằng vủ khí. Như vậy, bản chất của sự tự tử là một cuộc chiến mà đương sự đang cầm súng giết chết chính mình, vì những bế tắc khổ đau không giải quyết được. Và con số ngày ngày một gia tăng ở khắp các nước trên thế giới dẫn đến một báo động Đỏ để tất cả những nhà lãnh đạo cần phải ra tay hành động kịp thời nhằm ngăn chặn tệ nạn này.

Theo các nhà tâm lý học, tự tử là hành động tự làm tổn thương, cố ý chấm dứt sinh mạng của bản thân. Tự tử không phải là một chứng bệnh; tự tử không phải là do sự bất bình thường về mặt sinh học; nó cũng không phải là một hành động vô đạo đức, và không phải là một hành vi phạm pháp trong hầu hết các quốc gia trên thế giới.

 Một chuyên gia Tâm lý khác cho rằng, tự tử là hành động cướp đi sinh mạng của bản thân một cách có chủ tâm, và hành động này có thể là hậu quả của những chứng bệnh tâm thần và cũng có thể là hậu quả của những động cơ khác nhau; những động cơ này không nhất thiết phải liên quan đến các chứng bệnh tâm thần, nhưng chúng mạnh hơn cả bản năng sinh tồn của con người.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tự tử như: nghèo khó, mất mát, phẩn uất, thất tình, hoặc mắc chứng tâm thần phân liệt, bị trầm cảm nặng, bị chứng rối loạn lưỡng cực bị sang chấn tâm lý mạnh, bị lạm dụng chất kích thích, hoặc bị những chứng bệnh nan y, bị quấy rối, bị lạm dụng tình dục, bị cưỡng hiếp, bị cha mẹ trách mắng, bị mất cha hay mẹ, cha mẹ ly hôn, bị mất việc, bị sạt nghiệp, bị vỡ nợ, bị phản bội...

 Có rất nhiều cách thức để tự tử như dùng dao tự sát, dùng súng, bom mình, cắn lưỡi, uống thuốc độc, nhảy cầu, treo hoặc thắt cổ…

Phật giáo nhìn nhận cuộc đời là khổ đau do vô minhtham ái gây ra. Và con đường thoát khỏi khổ đau là phải tu tập để đoạn trừ vô minh tham ái theo con đường trung đạo dựa trên nền tảng của giới, định, tuệ được gói gọn trong Bát chánh đạo. Con đường này tránh xa hai thái cực của sự hưởng thọ dục lạc thái quákhổ hạnh ép xác. Và chỉ có con đường này là duy nhất để kiến tạo sự an lạc giải thoát niết bàn ngay bây giờ và ở đây. Chính vì vậy, đối với Phật giáo tất cả đều có con đường để đi ra khỏi khổ đau bế tắc bằng sự nỗ lực của cá nhân để tu tập chuyển hóa.

Theo Phật giáo, thân người khó được. Một câu chuyện được trích dẫn trong kinh tạng Pali cho thấy, cơ hội làm người giống như một con rùa mù bị trôi nỗi ngoài biển khơi, ngàn năm mới ngoi lên khỏi mặt nước và gặp được một bộng cây gỗ để chui qua bộng cây mà thoát chết. Được tái sinh làm người là một phước báu thù thắng. Mặc dù hiện nay trên thế giới có gần bảy tỷ người, nhưng nếu so với các loài động vật, côn trùng, thì loài người ít hơn gấp cả trăm ngàn lần. Và trong lục đạo luân hồi thì con ngườitối thắng, “nhân thị tối thắng” vì chỉ có làm người mới có cơ hội và khả năng tu tập tiến bộ tâm linh để đạt được thánh vị, Bồ tát vị và Phật vị. Do vậy, theo Phật giáo, nếu được làm thân người thì hãy trân quý và giữ gìn. Trong Kinh Phạm Võng có nói: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục”, nghĩa là “Một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được”. Kinh Niết Bàn cũng đã nói: “Nhân thân nan đắc như Ưu Đàm hoa” tức là “Có được thân người khó gặp như thấy hoa Ưu Đàm nở”. Mạng sống con ngườivô cùng quý giá, thế nên đã là con người thì ai cũng có thể trải qua những phút giây buồn, vui. Và một chân lý hiển nhiên, ai cũng biết, đời người, cuối cùng rồi cũng phải kết thúc, nhưng nếu được kết thúc theo quy luật tự nhiên hoặc trong tình thếmục đích lợi tha hướng thượng sẽ mang ý nghĩa cao đẹp vô cùng. Được làm người đã khó, làm bị thương hay hủy diệt thân ấy là một sai lầm lớn. Tự tử đó là việc đáng tráchtội lỗi vô cùng.

Về vấn đề tự tự, Phật giáo Nguyên thủy xem đó là thông thường trong trường hợp của các vị Thánh hoàn toàn đoạn tận lậu hoặc “Phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu” cắt đứt liên kết cuối cùng của họ với thế giới và tự nguyện đi vào Niết bàn. Vì vậy, cùng một hành động (tự sát) có thể là đúng hoặc sai tuỳ thuộc vào trạng thái của tâm lý của người đó. Nếu tâm còn vướng nặng tham ái, dục vọng sợ hãi là sai; ngược lại với tâm an nhiên tự tại, không còn tham ái dục vọng và không có mong muốn hoặc không sợ hãi là đúng.

Ban đầu, đức Phật đã tha thứ các hành vi tự tử khi hành giả đã đạt được quả vị A La Hán, nhưng sợ bị thoái đọa trở lại. Tuy nhiên, trong Luật tạng và các nơi khác, tự tử là bị từ chối bởi Đức Phật. Tự tử là liên tục bị lên án trong tất cả các kinh tạng Pāli, cũng như trong các trường phái đạo đức Phật giáo.

Trước hết chúng ta xem xét câu chuyên về Tôn giả Channa. Câu chuyện về Tôn giả Channa xuất hiện hai lần trong Nikāya: một ở trong Trung bộ và một ở trong Tương ưng bộ Nội dung câu chuyện ở trong hai bản kinh này là giống nhau. Câu chuyện về Channa thường được nhiều người trích dẫn nhằm mục đích đưa ra quan điểm của Phật giáo đối với các vấn đề y sinh như trợ tử và tự tử.

Khi Tỷ kheo Channa mang bệnh nặng, không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng phải cần đến con dao để chấm dứt mạng sống để khỏi bị cơn bệnh hành hạ. Tôn giả Xá Lợi Phật đến thăm và khuyên Tỷ kheo Channa cố gắng kham nhẫn, chịu đựng cơn đau để duy trì mạng sống. Sau đó Tôn giả Xá Lợi Phất nói cho Channa nghe về tự tính vô ngã của thân thể năm uẩn này. Ý thức rõ rằng: “cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi,” để đoạn trừ đau khổ. Ngài nhắc lại lời dạy của đức Thế Tôn và khuyên Channa phải luôn thường trực tác ý: “Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không dao động. Không có dao động thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu; không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có sanh tử; không có sanh tử thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận khổ đau.”Như vậy, theo những gì được trình bày trong câu chuyện này, Tôn giả Channa không bị coi là có tội, bởi vì thầy thực hiện hành vi đó không phải vì sự chấp thủ.

Câu chuyện thứ hai là về Tôn giả Vakkāli. Tôn giả Vakkāli bị bệnh nặng và vô cùng đau đớn. Để thoát khỏi sự đau đớn do bệnh tật gây ra, Tôn giả đã dùng một con dao và kết thúc mạng sống của mình. Sau khi sự việc được bạch lên Đức Phật, Ngài đã cùng với các Tỳ-kheo đến nơi ở của Vakkāli và xác nhận rằng “…với thức không an trú tại một chỗ nào, Thiện nam tử Vakkāli đã nhập Niết-bàn một cách hoàn toàn!”. Theo câu chuyện này, một người khi tâm không còn sự chấp thủ, người ấy sẽ giải thoát sau khi mạng chung, dù là bằng phương cách “trợ tử”.

Câu chuyện thứ ba liên quan đến Tôn giả Godhika. Tôn giả Godhika tu tập “không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần và chứng được nhất thời tâm giải thoát.” Nhưng sau đó tâm giải thoát ấy nhanh chóng bị mất đi. Lần thứ hai Tôn giả lại đạt được tâm giải thoát, nhưng rồi tâm giải thoát ấy cũng nhanh chóng biến mất. Và cứ như vậy cho đến lần thứ sáu. Vào lần thứ bảy, sau khi đạt được tâm giải thoát, Tôn giả nghĩ rằng sáu lần trước thầy đã đạt được tâm giải thoát nhưng sau đó tâm này nhanh chóng biến mất, nên lần thứ bảy, sau khi đạt được tâm giải thoát, thầy nghĩ “cho đến lần thứ sáu, ta bị thối thất nhất thời tâm giải thoát. Vậy nay ta hãy đem lại con dao”. Sau khi biết tin Tôn giả Godhika đã đoạn tận mạng sống (bởi vì muốn giữ tâm giải thoát), Đức Thế Tôn cùng với các Tỳ-kheo khác đến nơi Godhika mạng chung, và Ngài xác nhận rằng “Godhika đã nhập diệt, với thức không an trú ở đâu cả”. Tức Godhika đã được giải thoát.

Từ ba câu chuyện được dẫn ở trên, cho thấy Đức Phật đã không phê bình việc tự chấm dứt mạng sống của ba vị Tỳ-kheo nói trên. Tuy nhiên trong ba câu chuyện trên, chỉ hai câu chuyện đầu có những liên hệ gần với việc trợ tử hiện nay, tức là tự rút ngắn mạng sống do sự chi phối của cơn đau do bệnh tật gây ra. Và hai trường hợp này có thể được gọi là “trợ tử có chủ tâm”. Như vậy, với tâm không còn tham ái, chấp thủ như một số trường hợp được nêu trong kinh thì Đức Phật không khiển trách nhưng cũng không tán thán hành động này.

Chẳng hạn như trong Luật tạng, có đề cập đến trường hợp một nhóm Tỳ-kheo, sau khi nghe Đức Phật giảng dạy về sự bất tịnh của thân thể, đã tự kết liễu mạng sống của họ, hoặc kết liễu mạng sống của nhau, hoặc nhờ người khác kết liễu mạng sống của họ. Khi biết được điều ấy, Đức Phật đã khiển trách các vị Tỳ-kheo đã thực hiện những hành vi này và chế định luật cấm. 

Như vậy, Phật giáo hoàn toàn lên án hành động tự sát trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào. Với Phật giáo, chết không phải là hết, và người ta phải chịu trách nhiệm cho tất cả những hành động đã gây ra ở đời này và ở trong đời sống kế tiếp. Đồng thời Phật giáo cũng chỉ dạy nhiều phương thức để thực hành để con người từ bỏ ý định tự tử và tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống. Các phương pháp thiền địnhlối sống chánh niệm là một trong những phương pháp quan trọng của Phật giáo góp phần tích cực vào việc ngăn ngừahạn chế các nguy cơ tự tử, đồng thời góp phần điều hòa và chữa trị những tổn thương tinh thần do hành động tự tử gây ra cho chính nạn nhân cũng như cho người thân của họ. Thêm vào đó, nếp sống hiền thiện mà Đức Phật dạy còn là một phương pháp vô cùng hiệu quả trong việc ngăn ngừahạn chế tự tử. Nguyên nhân chính dẫn con người đến quyết định tự tử là do khổ đau cùng cực, không còn lối thoát. Nếu biết sống hiền thiện, gieo các nhân lành thì chắc chắn sẽ gặt hái được quả lành, cuộc sống sẽ không bị đẩy vào những tình cảnh bi đát, tuyệt vọng

Ngày nay, thế giới hiện đại đang dần dần khám phá ra những giá trị vô cùng quý báu của đạo Phật để giải quyết những vấn nạn của xã hội, nhất là các nhà tâm lý học, họ đã phát hiện được khả năng trị liệu các chứng bệnh tâm lý, những rối loạn tinh thần rất hiệu quả từ trong kho tàng giáo lý của đạo Phật. Mong sao kho tàng giáo pháp quý báu của đạo Phật ngày càng được nhiều người biết đến và chuyên cần áp dụng vào trong đời sống của bản thân để chuyển hóa khổ đau, mang lại an lạc hạnh phúc cho đời sống con người.

TẠP CHÍ VĂN HÓA PHẬT GIÁO, SỐ 347.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2715)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2315)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2778)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2561)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2671)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2555)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2684)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2458)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3280)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2428)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2562)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2482)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2561)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2238)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2606)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3071)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2669)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2733)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3028)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2580)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2625)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4133)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2794)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3092)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3330)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2304)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2536)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2818)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3021)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2634)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2644)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3205)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2675)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2324)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2508)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2615)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2709)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2768)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3295)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2575)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2142)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2629)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2120)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2896)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2995)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant