Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mỗi Độ Xuân Về

18 Tháng Hai 202118:09(Xem: 3697)
Mỗi Độ Xuân Về

MỖI ĐỘ XUÂN VỀ

Tiểu Lục Thần Phong

 
Mỗi Độ Xuân Về

Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật. Lò mứt bắt đầu vào mùa, mọi người trong nhà tăng tốc dần theo cái đà cận tết. Má, các dì, cậu… đều phải làm mứt cả. Khi ấy tôi thường được giao việc đi lấy nước giếng, giếng nhà ngoại nhiễm phèn, làm mứt sẽ không được trắng đẹp. Giếng nước từ nhà thờ họ cách chừng ba cây số, nước trong vắt, ngọt và mát lạnh, không chỉ làm mứt mà còn để uống ngon như nước đá.

Mẹ tôi, dì tôi rất khéo tay, cắt đu đủ xanh thành những bông thược dược, những cái nơ đủ kiểu. Sau khi rim và nhuộm màu xanh, đỏ, vàng… trông rất đẹp mắt. Những trái bí đao to và dài như trái bom được cắt nhỏ ra thành những miếng cỡ ba ngón tay, rồi cắt thành những hình chữ nhật, hình thoi, hình oval...xăm cho mềm, luộc chín và rim đường. Món khó nhất, công phu nhất và cũng ăn khách nhất là những củ gừng rim, củ gừng vừa đủ độ già thì nhổ lên, giữ một số thân cây trên củ, củ được gọt vỏ và xăm cho mềm nhưng không được gãy hay rã nát. Củ gừng sau khi rim đường trông đẹp như bàn tay con gái, có củ giống con lạc đà, lại có củ giống như núi đồi chập chùng và nhiều hình dáng khác, tùy theo sự tưởng tượng của mọi người. Mứt gừng nhà ngoại đẹp và ngon nổi tiếng khắp vùng, mùi nước đường rim gừng thơm và ấm, lan tỏa trong không khí, bay xa khắp xóm. Rim gừng thì không thề không nhắc đến dụng cụ xăm gừng, đó là những khúc gỗ gòn nhỏ vừa nắm tay, một đầu được cắm đầy những cây kim may, dù làm thủ công nhưng những cây kim ngay hàng thẳng lối và đều tăm tắp. Ngày nay những món mứt cổ truyền xem ra không còn mấy ai chuộng, nghề làm cây xăm dường như cũng mai một.

Những ngày tháng chạp bận tíu tít, người lớn trong nhà ai cũng mệt nhưng vui. Ba má tôi, dì tôi, cậu tôi vẫn thường nói:” Tháng chạp mới thật là tết, ra giêng đâu có vui”. Tôi và bọn con nít đâu có tin thường cãi rằng:” Tháng chạp đâu phải tết nên đâu có vui, tết mới vui” có lẽ vì tết mới được mặc áo mới, được lì xì, được nghỉ học chơi thả giàn mà hổng bị la.

Tháng chạp không chỉ làm mứt, nhà ngoại còn làm bì, tré và nhiều món bánh trái khác nữa. Tôi thường được giao nhiệm vụ đi hái lá ổi, lá ổi gói bì, bên ngoài dùng rơm bó lại, thường thì đến mồng hai tết là vừa ăn. Bì làm từ những món thừa thãi đầu, đuôi, thủ vĩ của con heo… ấy vậy mà làm bì ăn ngon hết biết! Tháng chạp còn là mùa nhổ củ hoành tinh, vườn nhà ngoại ở trên quê ( không phải nhà trong thị trấn dùng để ở và mua bán) trồng rất nhiều hoành tinh, khóm, ổi, lá gai ( dùng để làm bánh ít)… Tôi khoái nhổ củ hoành tinh, rồi đào bới thêm để lấy cho hết những củ còn sót hay gãy. Củ hoành tinh vừa làm bột, làm mứt nhưng trước hết luộc một nồi ăn cho khoái khẩu.

Những ngày gần cuối tháng chạp thật vui, trường cho nghỉ tết, tha hồ rong chơi. Nhà ngoại và nhà tôi quanh năm cúng kiếng chay, vì cả nhà ăn chay mười ngày mỗi tháng, duy chỉ có ngày tất niên là đặc biệt, là ngoại lệ cúng mặn. Tôi thường thắc mắc:” Nhà người ta ai cũng cúng gà, vịt, heo quay… nhà mình toàn cúng chay”. Ba tôi bảo:” Nhà mình thờ Phật, không sát sanh, không thể giết con vật rồi đem cúng. Con vật ấy có thể là thân nhân của mình trong kiếp quá khứ”

Tháng chạp với người làm nông có vẻ nhàn hạ hơn, mùa màng tạm yên nhưng với những tiểu thương mua bán như nhà ngoại tôi thì bận tối mắt tối mũi. Vừa là lò mứt lại vừa buôn bán đồ cúng như: giấy tiền, giấy vàng bạc, áo ông táo, áo cô hồn… bán rất đắt hàng. Tôi nhớ đã có lần hỏi:” Sao nghe nói trong Phật giáo không có đốt vàng mã mà nhà mình lại bán?”Ba tôi giải thích:” Đạo Phật không có mê tín, đốt vàng mã là ảnh hưởng văn hóa tập quán của người Tàu. Nhà mình không đốt, chỉ mua chín bán mười kiếm chút lời mà sinh sống, tuy biết vàng mã không phải chính mạng nhưng cũng không đến nỗi gây hại cho người và vật, vì chưa biết làm gì để sống nên tạm bán mua để làm sinh kế”. Tháng chạp với những người làm nghề mua bán thì gần như bận bịu cả ngày đêm, ăn uống thất bát, nếu năm nào tháng chạp có ngày ba mươi thì họ còn có thêm thời gian để chăm chút bản thân, nếu năm nào chỉ có ngày hai mươi chín thì họ bận cho đến sáng mồng một mới có thời gian gội đầu, làm tóc, trang điểm…

Tháng chạp là mùa hoa, hoa từ các nhà vườn khắp nơi đem về bày bán. Hoa trong chợ thường là hoa cắt cành để chưng trên bàn thờ hay để cắm trong bình. Hoa trong chậu và các loại cành cội lớn thì bán dọc quốc lộ chạy xuyên qua thị trấn, bạt ngàn là hoa, nào là: cúc đại đóa, cúc mâm xôi, cúc kim, thược dược, vạn thọ, mào gà, mai, hồng, huệ, tắc, bonsai… Những năm tháng ấy chưa thấy hoa đào, có lẽ lúc ấy phương tiện vận chuyển còn khó khăn, phương nam nắng nóng chưa quen với hoa đào, tập quán chưng hoa chưa thích ứng với hoa đào…

Ngày ba mươi ( hoặc hai mươi chín) tháng chạp, ba và ngoại thường mang gạo, bánh mứt và ít tiền lên chùa cúng, sau đó đến ngày mồng một tết mới về lễ Phật chính thức. Tháng chạp quả là tháng bận rộn nhất trong năm của nhà tôi, của những tiểu thương trong thị trấn. Tháng chạp là tháng mà thu nhập bằng hai hoặc ba tháng khác. Tháng chạp là tháng mọi người tất bật tích trữ, mua sắm chuẩn bị cho cái tết cổ truyền. Sau này lớn lên tôi mới thấy câu nói của người lớn là đúng:” Tháng chạp mới là tết, ra giêng đâu có vui”

Thế gian này vốn vô thường, thay đổi liên lỉ không ngừng nghỉ, có hợp thì có tan, các pháp hữu vi đều vì duyên sanh và cũng vì duyên mà diệt. Ngoại đã ra người thiên cổ, ba má giờ cũng đã già, trấn cũ ngày xưa giờ thay đổi cũng không còn nhận ra, phong vị tết ngày nay đã khác xưa, nhiều món sản vật và nghề thủ công cũng mai một, bánh mứt tết xưa giờ chẳng còn mấy ai chuộng. Duy cái ký ức tết xưa vẫn còn in đậm trong tâm thức tôi, mùi gừng rim thơm nồng ấm vẫn thoang thoảng trong tôi.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 01/2021

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2718)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2318)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2781)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2565)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2674)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2558)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2384)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2685)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2461)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3289)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2338)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2432)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2564)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2484)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2562)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2243)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2608)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3077)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2671)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2739)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3030)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2582)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2629)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4142)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2794)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3096)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3333)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2306)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2536)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2831)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3023)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2888)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2638)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2650)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3213)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2679)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2328)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2416)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2512)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2620)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2712)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2776)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3308)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2577)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2145)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2632)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2123)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2900)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2998)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant