Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Thức Chúng Sanh Tác Dụng Đến Cảnh Giới

09 Tháng Tám 202119:43(Xem: 3422)
Tâm Thức Chúng Sanh Tác Dụng Đến Cảnh Giới

Tâm Thức Chúng Sanh Tác Dụng Đến Cảnh Giới  

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Đời Như Tấm Gương Soi

 

Trong suốt những năm tháng hoằng pháp độ sanh Đức Phật luôn chú trọng đến mục đích chính là giải thoát con người ra khỏi những phiền não khổ đau của kiếp nhân sinh, đạt đến sự chứng ngộ, giải thoát. Bài kinh đầu tiên và căn bản nhất mà Đức Phật tuyên thuyếtTứ Đế, nội dung Đức Phật phân tích sự khổ, nguyên nhân và cách diệt khổ. Đây là giáo lý căn bản để Đức Phật lấy đó làm mục tiêu hành hoạt trong suốt những năm tháng ngài còn tại thế. Bằng một cách đơn giàn nhất Đức Phật đã nói rằng mục đích giáo lý của  ngài là : “Như nước trong đại dương chỉ có một vị mặn, giáo pháp ta cũng chỉ có một vị duy nhất đó là vị giải thoát”. Thông thường thì ngài từ chối những câu hỏi có tính chất siêu hình, trong Kinh Tiễn Dụ (Cūḷa-Māluṅkyaputta-suttam) khi tôn giả Man đồng Tử hỏi ngài:

 “Thế giới hữu thường hay vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên, sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt, hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?” .

Ngài dùng một ví dụ cụ thể để trả lời như sau:

  “Ví như một người bị trúng tên độc; do bị trúng tên độc nên đau đớn cùng cực. Người ấy được các thân thuộc đồng tình thương xót, mong muốn cho được lợi ích và phước lành, được an ổn khoái lạc nên tìm cầu y sĩ nhổ tên. Nhưng nó lại nói rằng, ‘Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết người bắn tôi đó, họ gì, tên gì, sanh ở đâu, cao hay thấp, mập hay gầy, da đen hay trắng, hay da không đen không trắng, thuộc dòng Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư, là người ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc?... Nhưng nó chưa biết được gì thì nửa chừng đã mạng chung…”(kinh Tiễn Dụ-bản Việt dịch của HT Tuệ Sỹ).

Thường thì Đức Phật không trả lời những câu hỏi mang tính huyễn hoặc thiếu thực tế như thế, vì ngài cho rằng nó không giúp ích gì cho chúng sanh trên hành trình tu tập để cầu giác ngộ giải thoát khổ đau cả.

Thế nhưng trong những trường hợp cần thiết như để khai thị cho đệ tử thì ngài cũng đề cập đến vũ trụ quan của ngài. Ví như để trả lời cho hai đệ tử là Bà-tất-tra và Bà-la-đọa ngài đã nói về nguồn gốc sự hình thành vũ trụcon người ngài đã thuyết Kinh Tiểu Duyên (Agaññasutta). Ta có thể sơ lược như sau: Từ buổi sơ khai khi hình thành quả đất trải qua một thời gian rất dài có một loài chúng sanh sống bằng hỷ lạc, du hành trong ánh sáng từ thế giới khác, khi  bay qua quả đất đã thu hút dưỡng chất mà mất đi khả năng bay trong ánh sáng, các loại dưỡng chất theo tuần tự thời gian xuất hiện trên quả đất để đáp ứng cho nhu cầu của loại chúng sanh đó. Do hấp thụ dưỡng chất trên quả đất mà thân hình nó càng ngày càng phát triển, loài người bắt đầu xuất hiện. Người nào ham ăn nhiều thì nhan sắc mau xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc còn tươi nhuận; người đẹp đẽ sinh tâm kiêu mạn khinh người xấu xí; người xấu xí sinh tâm tật đố ghét người đẹp đẽ, chúng sanh vì thế cùng nhau tranh tụng mãi, đây là hình thái ban đầu của tham, sân, si hình thành trong tâm thức con người. Cho đến một thời gian dài bắt đầu có sự phân chia giới tính nam nữ, cùng lúc lúa xuất hiệnloài người có thể hái lượm để ăn mà không cần gieo trồng gì cả. Chúng sanh lúc ấy ăn loại lúa gạo tự nhiên; lấy xong nó lại sinh ra, vô cùng vô tận, nhưng cũng có kẻ tham lam nên cố tình cất giữ và người khác cũng bắt chước theo, thế là hình thành khái niệm tích lũy, tích trử thức ăn nên thức ăn trở nên khan hiếm, gạo cũng sinh ra vỏ trấu và phải gieo trồng thì mới có ăn. Từ đó sanh ra mâu thuẫn, xung đột và họ đã chia nhau từng mảnh đất để gieo trồng để khỏi xâm hại của nhau. Nhưng rồi có kẻ lười biếng không chịu làm mà đi trộm của người khác, trật tự xã hội đã bị đảo lộn, do đó họ đồng ý với nhau bầu ra một vị minh chủ để giữ gìn trật tự của xã hội, phân xữ các kiện cáo, duy trì sự công bằng trong xã hội. Đó là sự hình thành chính quyền đầu tiên trong xã hội loài người…

Từ kinh Tiểu Duyên ta thấy nguyên thủy tiền thân của con người sống một cách thánh thiện, họ bay từ thế giới khác đến quả đất và bắt đầu bị thu hút bởi các loại dưỡng chất, cảm thấy ngon ngọt bèn nãy sinh ra ý niệm tham muốn hưởng thụ và kết quả ai tham lam ăn nhiều thì sẽ sinh ra xấu xí ai ăn ít thì nhan sắc tươi nhuận. Cứ thế khi lòng tham càng ngày càng tăng cùng với sự phát sinh luyến ái tình dục  giới tính và con người tham đắm vào đó thì môi trường cũng càng ngày càng xấu đi. Nhũng gì trước đây tự nhiên có để cho con người tự nhiên hưởng thụ mà sinh sống thì vì do lòng tham lam sinh ra tranh chấp, giành giật gây ra mâu thuẫn, xung đột nên càng ngày càng mất dần và loài người phải làm lụng, gieo trồng mà ăn,  nhưng sự tham lam không có điểm dừng  nên môi trường cứ thế ngày càng bị huỷ hoại.

Những gì Đức Phật đã tuyên thuyết về nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người trong Kinh Tiểu Duyên ta có thể suy luận rằng môi trường  biến hóa từ tâm thức con người, tâm thanh tịnh thì cảnh giới an nhiên tự tại, môi trường sống được yên lành phát triển một cách tự nhiên, tâm tham lam thích chiếm hữu thì cảnh giới bị nhiễm ô, môi trường bị hủy hoại. Đối chiếu với thực tế xã hội loài người hiện nay chúng ta thấy những gì mà Đức Phật nói trong Kinh Tiểu Duyên đang được chứng minh một cách cụ thể. Con người tự cho mình là chúa tể của muôn loài, vì lòng tham không điểm dừng con người dùng  trí thông minh để tạo ra thật nhiều của cải, vật chất để phục vụ cho đời sống của mình ngày càng sung sướng hơn.  Đồng thời để đạt được điều đó con người đã hủy hoại thiên nhiên, phá vỡ môi trường tự nhiên, đối xử với loài vật một cách tàn độc không thương tiếc. Để phục vụ cho lòng tham, vì lợi  nhuận của mình người ta đã sử dụng phân thuốc, chất kích thích hóa học để rút ngắn thời gian tăng trưởng, tăng năng xuất của cây trồng, lạm dụng thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu để phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh thái. Đối với vật nuôi để ăn thịt, con người đã vận dụng trí thông minh của mình để dùng hóa chất tăng trưởng, dồn ép gia súc vào chuồng trại hết sức chật hẹp, không cho con vật di chuyển để mau lớn, rút ngắn tối đa mạng sống con vật một cách tàn bạo để cung cấp thịt cho con người. Thế giới hiện nay chúng ta đang sống văn minh hơn, giàu có hơn, ăn ngon mặc đẹp hơn, có nhiều thứ để hưởng thụ hơn, nhưng  không khí chúng ta đang hít thở là một bầu không khí đã bị ô nhiểm bởi khí thải nhà máy, xe cộ, của hóa chất… bị thải ra môi trường. thịt của những con vật mà loài người đang ăn thực ra chỉ là một dạng khác của thực phẩm công nghiệp được tẩm hóa chất và độc tố.

Những gì mà loài người đã tàn độc gây ra cho thiên nhiên, cho muôn loài hôm nay đã bị trả giá. Xã hội càng văn minh, y tế ngày càng phát triển thì càng nhiều bệnh lạ mà y học tiên tiến cũng bó tay, mẹ thiên nhiên đã giận dữ đáp trả bằng những trận cuồng phong, những trận bão lụt khủng khiếp tàn phá hủy diệt, những trận hạn hán, nhiệt độ đột ngột tăng cao, thiên tai liên tiếp giáng xuống quả đất khiến con người phải mất mạng, phải mất nhà cửa, tiêu tán tài sản.

Hiện nay loài người đang căng mình chống chọi với dại dịch toàn cầu corona virus, trận đại dịch khủng khiếp của thế kỷ XXI đang cướp đi mạng sống của hàng triệu người, dịch bệnh lây lan cho hàng trăm triệu người khác và đại dịch ngày càng bùng phát mãnh liệt hơn. Trong khi đó tại các nước Đức, Bỉ, Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ đang xãy ra những trận bão lụt kinh hoàng nhất trong lịch sử cướp đi mạng sống của nhiều người và gây tổn hại tài sản, nhà cửa cho hàng triệu người khác. Nhìn cảnh con người từ Đông sang Tây, từ những nước đói nghèo lạc hậu cho đến những nước văn minh tiên tiến hàng đầu thế giới đang phải vật vã ngày đêm sống trong nỗi sợ hãi khi đối diện với kẻ thù vô hình, một cuộc chiến không cân sức, không nhận diện được kẻ thù, không có chiến tuyến và cái chết có thể đến bất ngờ không trừ một ai. Ta tự hỏi chuyện gì đang xảy ra cho loài người thế này, ngày tận thế sắp đến rồi chăng?! Thực ra tất cả những gì thiên tai, dịch họa đang xãy ra ngày hôm nay là QUẢ do con người đã gieo NHÂN trong quá khứhiện tại. Các nhà khoa học cố giải thích các thiên tai, dịch họa theo hiện tượng mà không thể giải thích nguyên nhân, bản chất của nó. Trong khi đó tất cả các hiện tượng của thiên nhiên nếu được nhìn từ luật nhân quả, nghiệp báo, lý duyên sinh thì ta sẽ tìm ra câu trả lời. Người Phật tử thấu hiểu giáo lý nhà Phật, quán chiếu luật nhân quả, nghiệp báo, lý duyên khởi, duyên sinh thì sẽ hiểu ra tất cả, để rồi từ đó sẽ điều chỉnh thái độ sống của mình đối với thiên nhiên, thay đổi hành vi tàn độc, giết hại sinh mạng muôn loài để phục vụ cho sự hứng thú hưởng thụ cái ăn của mình, ngừng việc phá hoạităng cường bảo vệ thiên nhiên, môi trường, lấy lòng từ bi mà đối xử với muôn loài, quý trọng mạng sống của chúng sanh, vì chúng ta hiểu rõ tất cả muôn loài đều ham sống sợ chết. Thay đổi quan niệm sống, biết thiểu dục tri túc, kiềm chế lòng tham và  dục vọng, tăng cường làm việc thiện, dứt trừ các việc ác để có sự thanh thản trong tâm hồn, có cuộc sống được an nhiên. Như thế là đã tự chế tác chất đề kháng, đó cũng là một thứ vaccine để tự bảo vệ mình và chia sẻ cho mọi người. Những gì Đức Phật dạy trong Kinh Tiểu Duyên xa xưa đã được chứng nghiệm trong thực tiễn cuộc sống hôm nay để cho Phật tử chúng ta suy ngẫm và thực hành.

Tâm Lễ-Nguyễn Ngọc Luật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1101)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 930)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1380)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant