Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật

12 Tháng Sáu 202214:45(Xem: 2267)
Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật
Lợi Ích Của Sự Hành Trì Giới Luật  

Thích Nữ
 Minh Tâm

hoa sen
 

I. Nhập đề:

 

            “Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’  Họ Bạch nói: ‘Hai câu nói ấy, đứa bé lên ba cũng nói được.’  Ngài Ô Sào bảo: ‘Tuy đứa bé lên ba nói được nhưng ông già tám mươi chưa làm xong.’  Phải biết lời nói này chính là lời nói thiết yếu quan trọng nhất đối với hết thảy người học Phật.[1]

 

            Thực vậy, hai câu ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành’ chính là đại ý của hết thảy kinh, giới của tam thế chư Phật, và cũng là mục đích của đạo đức học Phật giáo nhắm vào đối tượng con người để hướng dẫn họ tới một cuộc sống an lạcthanh tịnh, và trở thành một con người đầy đủ toàn vẹn nhân cách cao thượng, chân thiện mỹ.  Do đó, muốn thực hiện triệt để mục đích tu hành hướng tới giải thoátgiác ngộ cao đẹp tối thượng đó, hàng đệ tử Phật nhất định phải tuân thủ hành trì nghiêm mật một số qui tắc cần thiết, theo đạo Phật, gọi đó là Giới Luật.

 

            II. Định nghĩa:

 

Giới, tiếng Phạn là Sìla, Trung Hoa dịch là Giới, có nghĩa là phòng phi chỉ ác, là phòng bị, răn cấm, câu thúcngăn ngừa những điều sai trái, những tâm niệm tà vạy xấu xa.  Giới là những phạm trù, những cương lĩnh, những hàng rào tự nhiên trong đời sống thông thường.  Giới còn được gọi là ‘biệt biệt giải thoát’, có nghĩa là người nào giữ trọn vẹn được giới nào thì hưởng trọn vẹn kết quả của sự hành trì giới đó.  Thí dụ như chúng ta giữ hoàn toàn không xâm phạm giới sát sinh hay trộm cắp thì chúng ta sẽ không bao giờ lo sợ bị giam cầm hay yểu mạng, đau ốm, v.v. hơn nữa còn được người đời khen ngợi.

 

Luật, tiếng Phạn là Upalaksa, Trung Hoa dịch là Luật, là những qui tắc, nguyên tắc, kỷ luật, khuôn khổ, pháp tắc, điều lệ giữ gìn trật tựkỷ cương trong Tăng đoànGiáo hội Phật giáo mà mọi người con Phật phải thực thi.  Cũng giống như chúng ta học lái xe, chúng ta bắt buộc phải chấp hành những luật lệ lái xe, nếu chúng ta vi phạm luật lệ giao thông, chắc chắn chúng ta sẽ bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ; tuy nhiên giới luật của đạo Phật không phải là những tín điều bắt buộc người đệ tử phải nhắm mắt mù quáng tuân theo mà chỉ là những phương tiện hành trì giúp cho những người học đạo, nếu muốn sống đời thanh tịnhphạm hạnh, phải ngăn ngừa những hành động tội lỗi và điều phục chế ngự được dục vọng tư hữu của mình ngõ hầu có thể tiến dần lên quả vị giải thoát.

 

Theo Phật sửtrong suốt mười hai năm đầu, Đức Phật chưa chế giới vì trong Tăng đoàn hoàn toàn thanh tịnh, người giác ngộ và đắc Thánh quả nhiều, chưa có những điều tệ hại xảy ra, nhưng càng về sau, khi Tăng đoàn càng lớn mạnh thì bắt đầu manh nha những người làm điều phi pháp, phá vỡ sự thanh tịnh và hòa hợp, làm cản trở sự tu tập giải thoát; vì thế để ổn định lại kỹ cương trật tự của Tăng đoàn, Phật đã ‘tùy phạm tùy chế’, nghĩa là vi phạm tới đâu, chế giới luật tới đó.  Tất cả những nguyên tắc, kỷ luật đó được chúng đệ tử xuất giatại gia gìn giữtu tậptruyền thừa và dần dần được hệ thống hóa thành Luật tạngcuối cùng được phân chia ra rõ rệt giới luật cho đệ tử xuất gia gồm có Tỳ Khưu Tăng (250 giới), Tỳ Khưu Ni (348 giới), Sa Di và Sa Di Ni (10 giới), năm giới, tám giới cho hàng đệ tử tại gia, và Bồ Tát giới thông cho cho cả hai chúng đệ tử xuất gia và tại gia.

 

            Nói gọn lại cho dễ hiểuGiới Luật nhà Phật là những khuôn khổ, pháp tắc, qui củ thuận theo pháp tánhcăn cơ được sử dụng hành trì để nhiếp phục dục niệm, chế ngự tà tâmđối trị nghiệp duyêntập khí xấu ác của mọi chúng sinh, vì thế tất cả hàng đệ tử Phật phải y giáo phụng hành, không được sái phạm.

 

III. Lợi ích của sự hành trì Giới Luật

 

a)      Quan hệ của Giới Luật trong phạm trù Nhân Quả

 

Hai chữ ‘Nhân Quả’ gồm trọn hết thảy các pháp thế gianxuất thế gian không sót chút gì.  Kinh dạy: ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.’  Nếu chẳng muốn nhận quả khổ thì phải đoạn trừ nhân xấu ác trước đã.  Nếu luôn tu thiện nhân, ắt quyết định hưởng quả vui.  Đây chính là điều kinh Thư viết: ‘Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng ương’ (Làm thiện thì điều lành tốt tới, làm điều bất thiệntai ương giáng xuống).  Kinh Dịch cũng nói: ‘Tích thiện tất hũu dư khánh, tích bất thiện tất hữu dư ương’ (Tích thiện, sự vui có thừa, chất chứa điều bất thiệntai ương ắt có thừa).[2]

 

Hai câu nói của ngài Ô Sào Thiền Sư ở trên trích trong bài kệ bốn câu:

‘Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo’

tạm dịch là:

‘Không làm các điều ác,
Vâng làm các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Đó lời chư Phật dạy’

cũng chính là muốn nhấn mạnh điểm ‘phòng phi chỉ ác’ của Giới Luật mà cũng là phương cách phòng bị, ngăn ngừa nhân quả, giúp cho hành nhân khéo làm hạnh lành, tránh xa việc xấu, giữ cho thân tâm được trong sạch.

                           

“Thiện – ác chẳng ngoài ba nơi thân, khẩu, ý.  Đã biết nhân quả sẽ tự phòng giữ thân - miệng, rửa lòng gột ý.  Dù ở trong nhà tối, phòng kín vẫn luôn như đang ở trước các vị thần thánh, chẳng dám móng khởi chút tà niệm tư dục nào, để khỏi bị chiêu cảm quả báo xấu.  Đấy chính là đại pháp ‘trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân’ để dạy khắp hết thảy chúng sinh thượng, trung, hạ căn của đức Đại Giác Thế Tôn vậy.  Tuy thế, kẻ cuồng sợ bị câu thúc, bảo đó là chấp tướng; kẻ ngu nhằm tránh khỏi bị xấu mặt, bèn bảo đó là chuyện vu vơ.  Trừ hai hạng người này ra, có ai lại chẳng tin nhận?”[3] vì thế, từ kẻ phàm phu nghèo hèn cho đến người thanh cao quyền qúi, không ai lại không muốn an hưởng một đời sống hạnh phúcấm noyên ổn, không lo sợ phập phồng, bất an.  Muốn được như thế, tất nhiên chúng ta phải tuân thủ qui luật, phép tắc, kỷ cương đạo lý luân thường.  Nhất là người xuất gia chân chính thì phải hành trì nghiêm mật giới pháp đã lãnh thọ, trước là giữ gìn thân, khẩu, ý nghiệp của chính mình để không bị vương mang hệ lụy nhân quả, sau là làm gương mẫu cho người người noi theo tu tập để gia đìnhxã hội được trật tự, hài hòa, an vui. 

 

b)      Giới Luật trong phạm trù Tam Vô Lậu Học

 

Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không.  Luận đến chỗ thiết yếu thì chỉ có ba pháp Giới - Định -Tuệ mà thôi!  Nhưng ba pháp này dung nhiếp lẫn nhau, chẳng thể đứng tách riêng ra một mình được. Sơ tâm nhập đạo thì trì giới là nhiệm vụ quan trọng nhất.  Do vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ.  Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học.’  Do vậy, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác, liền nói Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới để hết thảy Bồ Tát cùng chư Thiên Thích Phạm, và vua quan, nhân dân dù Tăng hay tục, cho đến đào kép, nô tỳ, hết thảy chúng sanh trong ba ác đạo đều cùng thọ trì.  Do vậy, biết Giới chính là lò luyện lớn lao để Như Lai nung phàm luyện thánh vậy.”[4]

 

Như thế có thể nói, ba pháp này như cái đỉnh có ba chân, nếu thiếu một cái thì cái đỉnh không thể đứng vững được.  Tuy nhiên nói có ba nhưng thực ra chi có một, nói có một nhưng lại phải cả ba; bởi vì nhờ giữ Giới mà thân, khẩu, ý nghiệp không vi phạm, tâm được an trụ, nhiếp tâm nên sanh Định, nhờ có Định kết hợp với Giới giữ cho vọng tâm không sanh khởi, nghiệp tận tình không, thấu tột lẽ chân thường, trí óc minh mẫn sáng suốt, đó không phải là công dụng của Tuệ hay sao?  Người học Phật cần phải biết rằng dù là Hiển giáo hay Mật giáo, dù Thiền hay Tịnh, v.v. tất cả các pháp phải trọn vẹn Giới - Định - Tuệ thì mới có thể truyền đăng tục diệm, kế vãng khai lai được, còn nếu khiếm khuyết, không đầy đủ thì không thể nào thượng hoằng Phật đạohạ hóa quần sinh cho được.

 

Kinh Phạm Võng dạy: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.  Thường nên tin như thế thì giới phẩm đã trọn đủ.”  Câu nói này đủ giúp chúng ta nhận thức rõ tầm quan trọng và sự thống nhiếp các pháp của giới luật, do đó các bậc tri thức, các vị hành giả tu trì, không ai mà không lấy Giới Luật làm nền tảng ban đầu học đạo, làm nhiệm vụ trước tiên, và cũng vì sự quan trọng thiết yếu đó nên chắc chắn sự thọ lãnh và hành trì giới luật sẽ đem lại cho chúng ta lợi ích tốt đẹp to lớn trong suốt cuộc đời tu hành của chúng ta.

c)      Lợi ích của sự thọ lãnh và hành trì Giới Luật

 

Theo lời Phật Tổ dạy, thế đạo nhân tâm thời Mạt pháp bị suy hãm đến cùng cực, pháp nhược ma cường, muốn hộ trì Phật pháp, ở cõi tục tương đối dễ, nhưng xuất gia làm Tăng không phải việc đơn giản, dễ làm.  Nếu không gặp được minh sư, thiếu người cùng hạnh để nâng đỡ, rèn giũa mình tinh tiến học đạo thì chí hướng thượng của chúng ta có thể bị suy giảm, chẳng còn sốt sắng siêng năng, dễ xuôi theo biếng nhác, trễ lười, uổng phí một đời xuất gia làm Phật tử, cô phụ ân Thầy Tổ, không báo hiếu được mẹ cha.  Tổ sư Ấn Quang nói: “Người xuất gia nếu chẳng phải là chân tu thì tập khí đầu đường xó chợ còn quá hơn kẻ tục,”[5] vì thế, người xuất gia, nếu muốn thanh tịnh thân tâm, việc quan trọng đầu tiên là phải nghiêm trì Giới Luật.

Chúng ta có thể kém tài, nhưng đối với giới luật mà mình đã lãnh thọ thì phải “tịnh như băng tuyết”. Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy: “Vào biển Phật Pháp lấy đức tin làm căn bản, vượt dòng sanh tử lấy giới luật làm thuyền bè. Nếu người xuất gia mà không giữ giới cấm, lại tham đắm, vướng mắc những thú vui thế tục, hủy báng giới pháp của Chư Phật, hạng tỷ kheo như thế không còn được gọi là người xuất gia nữa”. Chúng ta là những trưởng tử Như Laigiữ gìn mạng mạch Phật Pháp để lưu truyền nơi thế gian, lãnh trách nhiệm “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, muốn cho chánh pháp trường tồn thì phải lấy giới làm Thầy. Ba đời chư Phật đều nương vào giới luật mà tu tập cho đến khi thành tựu đạo quả. Như vậy, khi nào không còn người giữ giới nữa thì Phật Pháp cũng từ đó mà hoại diệt, vì không còn người đủ tư cáchđức hạnh để tuyên dương chánh pháp của Như Lai.”[6]

 

Tuy nhiên người xưa xuất gia thọ giới là vì phát tâm giải thoát sinh tử luân hồi, còn người đời nay thọ giới đa phần chỉ vì để được làm đại Tăng cho thỏa thể diện, chuyện đắc giới chưa hề thực hiện hay nghĩ tưởng đến.”[7]  Vì vậy, trong Tăng đoàn đã xảy ra nhiều vấn đề phức tạprối loạn kỹ cương, vàng thau lẫn lộn, nhất là sau này tệ nạn thâu nhận đồ đệ hời hợt, chỉ muốn có chúng đệ tử đông nhiều mà không quan tâm đến phẩm hạnh tư cách, và lơi lỏng dễ dàng quá mức cho vấn đề thọ lãnh giới pháplắm khi đưa đến tình trạng phi pháp phi luật, cho nên nhiều kẻ cang cường, phường hạ lưu cũng đã chen chân vào được trong Tăng đoàndự vào hàng Thích tử, nghênh ngang xem thường giới pháp đã lãnh thọ, mê trái bản tâmphóng túng làm chuyện thương tổn luân lý, phong tục . . .

 

Vì tính cách quan trọng thiết yếu của Giới Luật trong giềng mối giữ vững mạng mạch Phật pháp đó, dấu ấn quan trọng nhất trong đời tu của một người đệ tử Phật, nhất là người xuất gia, chính là ngày được đăng đàn thọ lãnh giới pháp.  Trong không khí trang nghiêm hào hùng của giới đàn, vào giờ phút long trọng linh thiêng, dưới sự chứng minh của những bậc cao Tăng thạc đức tam sư thất chứng, lời thệ nguyện lãnh thọ phụng trì giới pháp của vị Tăng sĩ, đệ tử xuất gia của Phật, xuất phát từ lòng thâm tín chư Phật, dũng mãnh quyết tâm đi theo bước chân hoằng pháp của đức Như Lai, dâng hiến trọn đời mình cho hạnh phúc và an lạc của chúng sinh, đã trở thành một ấn tượng khó lạt phai trong tâm tưởng người thọ giới, và cũng chính nhờ vào dấu ấn ‘vô biểu sắc’ này mà vị Tăng sĩ đó có thể vượt qua được nghịch cảnh thăng trầm của dòng đời và những biến đổi não loạn của nội tâm, từ đó có thể vững mạnh thực hiện lý tưởng ‘thượng hoằng Phật đạohạ hóa quần sinh’, khỏi cô phụ ân đức của Thầy Tổ, mẹ cha, và đàn na tín thí.

 

Cũng chính nhờ vào sự trân trọng lãnh thọ giới pháp đó mà hàng Tăng sĩ chúng ta dần dần chuyển hóa được những tập khí xấu ác từ vô lượng kiếp trước, thăng hoa tâm trí, “phát triển được tánh linh, để xứng đáng là bậc trượng phu lỗi lạc, là con chân thật của đức Thế Tôn.  Nếu không y giáo phụng hành như thế, thì dưới lớp ca sa, đánh mất thân người, nỗi khổ tam đồ ác đạo dẫu hết cả kiếp vẫn chưa thể nói hết được.”[8]

 

IV. Kết luận

Xưa kia, khi còn sinh tiền, Hòa Thượng Tuyên Hóa có dạy môn đồ viết đối liễn, trong đó có câu “Phật giáo đồ nhược bất trì giới tức Mạt pháp” nghĩa là nếu tín đồ Phật Giáo không trì giới tức là Mạt Pháp.  "Phật Giáo đồ" có nghĩa là hàng Tăng Sĩ, đệ tử xuất gia của Phật.  Phật giảng Pháp, Tăng theo Pháp tu hành rồi truyền cho người khác. Tăng nhất định phải trì Giới, không trì Giới thì đó là Mạt Pháp, nên nói: "Nếu Phật Giáo đồ không trì giới tức là Mạt Pháp."

Phật pháp nhờ vào Tăng mà truyền đạt, song Tăng sĩ phải cần lấy Giới làm gốc.  Giới là nền tảng để thành Phật. Nền tảng này cũng giống như cái móng khi xây nhà. Bây giờ mình xây móng để dựng nhà Phật pháp, thì chắc chắn phải lấy sự hành trì Giới làm bước khởi đầu.  Kinh Thư cũng có câu: “Thánh mất niệm nên thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành Thánh.”  Do vậy nên biết nếu điều phục, khắc chế được vọng niệmtà tâm thì mới phát huy được đức tướng, trí huệ để thành thượng nhânthành thánh, và phương pháp duy nhất hữu hiệu để chế ngự được vọng tâm thì chỉ có Giới Luật mới có đủ công năng giúp hành giả bối trần hiệp giác, không bị xuôi thuận theo nhiễm duyên phiền não khiến cho sóng Thức tuôn trào, biển Nghiệp dập dồn tơi tả.

Cách đây hơn 2, 550 năm, khi sự nghiệp một đời giáo hóa xong xuôi, sắp nhập Niết Bànđức Phật đã thiết tha dặn dò hàng đệ tử và tất cả chúng sinh“Này các Tỷ khưu, sau khi Ta diệt độ, các vị cần phải tôn trọng kính ngưỡng Ba la đề mộc xoa (giới luật), như kẻ mù tối được sáng mắt, kẻ nghèo hèn được vàng ngọc. Phải biết Giới Luật là bậc Thầy cao cả của các vị, dù Ta ở đời cũng không khác gì Giới Luật ấy.” (Kinh Di Giáo)

Tiếp đó, Phật dạy về lợi ích trì giới, về những pháp chế tâm nhất xứ, về cách sống, cách uống ăn điều độ, v.v.  Ngài dặn đi dặn lại nhiều lượt, từ những điều nhỏ nhặt, vi tế cho đến những sự việc lớn lao, còn quá chi li, tỉ mỉ, đượm đầy từ bi hơn cả mẹ hiền dạy bảo con cái.  Thật không thể dùng bút mực nào để diễn tả được hết lòng Từ Bi của Phật thương chúng sinh, như trong kinh Lăng NghiêmBồ Tát Đại Thế Chí niệm Phật chương, có đoạn: “Thập phương Như Lai, lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử. Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi? Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức thời. Mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn” (Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn dẫu nhớ cũng chẳng làm gì được! Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con thì mẹ con trải qua nhiều đời chẳng xa cách nhau).

 

Do đó, muốn báo đáp ân đức của Phật Tổ và đàn na tín thí, muốn báo hiếu cha mẹ hiện đời, muốn hoàn thành tuệ nghiệp và lý tưởng xuất trần độ thế của người đệ tử xuất gia của đấng Thế Tôn đại hùng đại giácchúng ta phải thành tâm lãnh thọnghiên cứu thấu triệt tinh thầný nghĩa giới luật; một khi hiểu rõ giới luật rồi, chúng ta sẽ biết cách làm người như thế nào và một khi hiểu rõ bổn phận làm người, chúng ta cũng sẽ biết rõ bổn phận làm bậc Thánh nhân.  Hành trì được như thế, chúng ta mới không khỏi hổ thẹn ‘thân khoác ca satâm vương trần lụy,’ để rồi cả một đời chuốc hận khổ đau, đường giải thoát mịt mờ xa thẳm.

 

Nói tóm lạiGiới Luật là mạng mạch của Phật Pháp, là thuyền Bát Nhã giúp hành giả vượt bến mê, là đôi cánh xoãi dài rộng của thân chim đại bàng tung bay vút cao trên bầu trời trong xanh kia, là bến đỗ của an lạchạnh phúc, và tình thương.

 



[1] Như Hòa. Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 248.

[2] Như Hòa.  Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 250. 

[3] Như Hòa.  Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục. Chùa Đức Viên, San Jose, California, Hoa Kỳ, 2006, trang 260-61.

[4] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quyển 3.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 1340.

[5] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 1.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 556.

[6] Thích Thông Huệ.  Thọ mạng của Phật Pháp.  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/thomang.htm

[7] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 1.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 557.

[8] Như Hòa.  Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao quy ển 3.  Chùa Đức Viên, San Jose, CA, Hoa K ỳ, 2008, trang 1200.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1486)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1932)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1478)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2063)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1672)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1583)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1651)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2219)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1908)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1853)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1687)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2002)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1621)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1765)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1975)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1512)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1757)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1728)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1973)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1746)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1602)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1574)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1588)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1504)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2027)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1590)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2132)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1781)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1856)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2052)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2321)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2351)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1883)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1693)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2054)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2582)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1475)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1442)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1597)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1431)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant