Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Tin Người Học Phật

27 Tháng Mười Hai 202209:21(Xem: 1805)
Đức Tin Người Học Phật

Đức Tin Người Học Phật

Thích Nguyên Hùng

 Những Yếu Tố Tạo Nên Sự Sống Và Sự Chấm Dứt Của Sự Sống



Niềm tin
 là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tincon người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết, sống thác loạn, điên cuồng, buông thả, bất cần đời. Nhưng niềm tin là gì và tin vào cái gì? Đó và vấn đề mà mỗi chúng ta phải tự hỏi lại để thẩm định giá trị niềm tin của mình. Nếu tin tưởng vào một điều gì đó mà dẫn đến bế tắc, khủng bốbạo động, mất an ninh, thì đó không phải là niềm tin mà là cuồng tín. Còn tin mà không hiểu điều mình tin là gì thì đó là mê tín. Bạn chắc chắn không phải là hạng người này?

Sau khi thành đạođức Phật ngạc nhiên khi nhận ra rằng: “Tất cả chúng sanh đều vốn có đầy đủ đức tướng của Như Lai”. Rồi Ngài tuyên bố: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Đó là sự khởi đầu của niềm tin trong Phật giáoNiềm tin này hoàn toàn xa lạ với nhân loại đương thời, vốn đã có niềm tin in sâu vào tận gốc rễ tâm hồn của mình, rằng con người được sanh ra từ đấng Phạm thiên hay Thượng đế, ở một chi phần nào đó trong cơ thể ngài, để rồi an phận trong cái giai cấp vô lý mà xã hội phân định, tin mọi khổ đau hay hạnh phúc của đời người đều tùy thuộc vào một đấng tạo hóa nào đó có quyền năng ban phước giáng họa…

Khác với niềm tin mù quáng đó, người Phật tử tin Phật là đấng giác ngộ đã thành, được gọi là tín căn, một trong năm pháp tu gọi là Ngũ căn. Kinh Tương Ưng V, đức Phật dạy: “Vị Thánh đệ tử có lòng tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: Đây là Thế TônNhư LaiỨng CúngChánh Biến TriMinh Hạnh TúcThiện ThệThế Gian GiảiVô Thượng SĩĐiều Ngự Trượng PhuThiên Nhân Sư, Phật”. Tin như thế là hoàn toàn có cơ sở và kiểm chứng được. Đức Phật không bao giờ bắt buộc ai tin một điều gì mà không suy luậnkhông giải thích và không chứng nghiệm được. Ngài nói: “Ai tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Rõ ràng, tin Phật mà không hiểu được, không biết được đức Phật qua mười hiệu nêu trên thì có nghĩa là phỉ báng Ngài.

Tin Phật là đấng giác ngộ đã thành không phải để tôn thờ, sùng kínhlễ lạy mà để thực hành tu tập theo Ngài, để mình cũng được thành Phật như Ngài, tức là tin vào khả năng thành Phật của chính mình. Điều này thì Khởi tín luận, khi trả lời câu hỏi người Phật tử phải tin vào điều gì, đã ghi: “Bốn sự tin thì một là tin căn bản, là thích thú nghĩ nhớ tâm thể chân như. Hai là tin Phật, rằng ngài có công đức siêu việt, nên mình luôn luôn nghĩ đến sự thân gần, hiến cúng và tôn kính để phát sanh thiện căn, mong được tuệ giác hoàn hảo của ngài. Ba là tin Pháp, rằng pháp ấy có lợi ích vĩ đại, nên mình luôn luôn nghĩ đến sự làm theo các pháp ba la mật. Bốn là tin Tăng, rằng các vị ấy tu hành chính xác để tự lợi lợi tha, nên mình luôn luôn thích thú thân gần Bồ tát tăng để cầu học sự tu hành đúng như sự thật”. Rõ ràng trong bốn sự tin, thì niềm tin nào cũng hướng chúng ta đến sự nỗ lực tinh tấn hay nương tựa vào chính hải đảo của tự thân để thành tựu “tự tánh Tam bảo”, đạt đến cứu cánh giải thoátĐặc biệtniềm tin căn bản phải là tin vào tâm thể chân như của chính mình. Tâm thể chân như chính là bản thể thanh tịnh của chúng sanh, ở đó, Tâm – Phật – Chúng sanh, cả ba đều đồng một thể, không hề sai khác.

Tâm thể chân như ấy là Phật tánh nơi ta và nơi mỗi chúng sanhVì vậyPhật giáo tôn trọng tất cả mọi loài chúng sanh và tin rằng tất cả rồi sẽ thành PhậtNiềm tin ấy là cả một chân trời hy vọngthương yêu và hướng đến xây dựng một thế giới hòa bình, hơn nữa là kiến thiết nhân gian Tịnh độ. Vì rằng, “chúng sanh vốn là Phật đà, dẫu cũng vốn có vô minh, nếu chúng sanh không vốn là Phật đà, thì tu hành cũng không thành Phật đà” (Kinh Viên Giác). Chính niềm tin này là động lực phát triển tâm từ, lòng thương yêu tất cả mọi người và mọi loài nơi mỗi chúng ta, tạo thành nguồn năng lượng cho cuộc sống tươi đẹp, lành mạnh, tràn đầy hy vọng và sự tin tưởngtôn kính lẫn nhau, dù trong hoàn cảnh nào. Không phải đại tướng cướp Angulimàla đã tu tập và chuyển hóa thành A la hán Bất hại, kỹ nữ Liên Hoa Sắc trở thành A la hán có thần thông đệ nhất trong hàng Ni chúng… đã cho chúng ta những niềm tin tươi đẹp đó sao!

Khởi tín luận, như vậy, “đã đưa chúng ta đến tột đỉnh của sự tự tín, xác quyết rằng chúa tể của ta chính là ta đây”. Niềm tin như vậy, đối với chúng sanh từ lâu đã tự đánh mất chính mình, bị mây mờ vô minh che lấpquả thật là khó tin! Cho nên, đối với sự tu tập trong Phật pháp, nhất là sự tu tập đó nhằm đến mục đích giác ngộ thành Phậtniềm tin trở thành vô cùng cần thiết. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là căn nguyên của đạo, là mẹ của mọi công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết Bàn”. Dù vậy, niềm tin đó không gì khác hơn là tin vào chính mình, tin vào định luật Nhân quả, tin nguyên lý Duyên khởi, tin chân lý của cuộc đời là Tứ diệu đế.

Thật vậy, tin nhân quả cũng là tin vào chính mình. Tin rằng khổ đau hay hạnh phúc là do chính mình tạo ra bằng những hành động, nói năng và suy nghĩ bất thiện hay thiện lành. Đạo Phật không tin vào bất cứ một đấng Thượng đế hay Tạo hóa nào có quyền ban phước giáng họa hay chi phối đời sống của mình, mà chỉ tin vào định luật Nhân quả: gieo nhân nào gặt quả nấy. Trong Tăng Chi bộ kinh, đức Phật dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào đã làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”. Do đó, tin Nhân quả là tin rằng, thành Phật hay thành chúng sanh, sống cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, sang hay hèn, phú quý hay bần tiện… đều tùy thuộc vào chính bản thân mình, có tu tập hay không tu tập. Nhận rõ được quả báo hành vingôn ngữ và ý niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách đất gì hết, chỉ biết tự trách mình, cho nên không còn khổ đau nữa, trái lại chúng ta sẽ tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm sao cho mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn, để cuộc đời được tươi sáng hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.

Tin nguyên lý Duyên khởi là do hiểu mà tin. Hiểu rằng mọi sự mọi vật trong vũ trụ vạn hữu đều nương vào nhau mà sanh khởitồn tại và hoại diệt. “Do cái này sanh nên cái kia sanh, do cái này diệt nên cái kia diệt”. Vũ trụ vạn hữu đã nắm tay nhau để đưa chúng ta ra đời. Làm sao chúng ta có thể nói được rằng sự hiện hữu của chúng ta đây lại không có mặt của ngọn cây lá cỏ vô tình kia? Kinh Đoạn Tận Ái cho chúng ta biết, thân thể của con người gồm có nội thân và ngoại thân. Nội thân chính là bốn yếu đất (chất rắn), nước (chất lỏng), gió (hơi thở) và lửa (nhiệt lượng) trong cơ thể của ta. Ngoại thân chính là yếu tố tứ đại bên ngoài chúng ta, tức là môi trường sống. Quả nhiên, bằng con mắt tuệ giácchúng ta thấy, chứ không phải chỉ tin, trong cành cây ngọn cỏ kia đều ẩn chứa sự sống lung linh mầu nhiệm của chính bản thân mình (Nhất tức nhất thiếtnhất thiết tức nhất – Kinh Hoa Nghiêm). Sự hiểu biết này đã đánh tan mọi tư duy hữu ngã, nguyên do của khổ đau sanh tử luân hồi, để đạt đến tuệ giác vô ngã, thấy mình với tha nhân là một, thấy mình với vũ trụ vạn hữu không thể tách rời nhau. Đây là tuệ giác giải thoátTình thương yêu sẽ tràn ngập thế gian này từ niềm tin trí tuệ đó. Và thế giới sẽ hòa bình, nhân gian sẽ thành Tịnh độ, nếu ai cũng được giáo dục để có được sự tin hiểu này.

Không có sự hiện hữu nào lại không có duyên do của nó. Vì vậysự thật hay chân lý của cuộc đời luôn luôn tồn tại theo hai cặp phạm trù: khổ - nguyên nhân của khổ, và hạnh phúc – phương pháp đạt được hạnh phúc. Một sự thật như vậy có cần có niềm tin mới thể nhập được hay chỉ cần có trí tuệ? Cả hai đều cần thiết. Bởi vì, bốn sự thật cao cả (Tứ diệu đế), bao hàm các giáo pháp như Vô thườngVô ngãTánh không, Thật tánh… không thể chỉ hiểu và chấp nhận bằng tư duy và lý luận suông mà được, mà cũng cần phải có niềm tin. Cho nên, luận Đại trí độ mới nói: “Biển Phật pháp mênh mông nhưng có thể thâm nhập bằng tín”. Đức Phật cũng dạy: “Nếu đệ tử của Ta là hạng tuỳ tín tăng thượng, sau khi y vào minh tín, bằng tuỳ thuận pháp trí mà đạt đến cứu cánh” (Kinh Thắng Man). Nghĩa là, cũng có người nhờ vào tín tâm, nghe và tin những điều Phật dạy, rồi cứ y theo đó mà tu tập cho đến khi thấy được Thánh đếTuy nhiên, cũng có người sau khi nghe Phật giảng giảiđủ khả năng tự mình quán sát, phân tích, rồi theo đó mà tu tập để thấy được Thánh đế. Ở trường hợp này, đức Phật khuyến khích: “Pháp của Ta là đến để thấy chứ không phải để tin”.

Cuối cùng, “Ví như nhà vua, tạo lâu đài nơi bên thành, xây đắp chắc chắn, khiến không thể hư nát; bề trong quốc gia yên ổnbề ngoài ngự phòng oán địchPhật tử cũng vậy, phải kiên cố lòng tin tưởng đức Như Lai, khi lòng tin đã vững vàng thì quyết không theo những kẻ sa môn ngoại đạophạm chí ác ma và ác thế gian. Ấy là đã xây dựng được lòng tin như lâu đài bền chắc. Là Phật tử phải bỏ điều ác, điều xấu mà tu các pháp lành” (Kinh Trung A Hàm). Dù vậy, “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ mới làm cội gốc tu hành” (Kinh Niết Bàn). Vậy nên, những ai tự cho mình là Phật tử, thì điều trước hết, phải tự tín rằng mình đích thực là “Như Lai chân tử”, có quyền được thừa kế gia sản giàu có của ba đời chư Phật. Gia sản đó chính là Tứ vô lượng tâm, là Sáu ba la mật, là cả bầu trời tự dogiải thoátan lạc tuyệt đối… Xã hội ngày một thác loạn, tham nhũng, khủng bốbạo hành xảy ra khắp nơi; thanh thiếu niên thì hư hỏng, mất gốc, tệ nạn ma túy, mại dâm; thiên nhiên thì ô nhiễmthiên tai... đã khiến cho nhân loại mất hết niềm tin vào cuộc sống. May thay, người Phật tử vẫn có cả một kho tàng giáo lý nhiệm mầu từ bi vô ngã để cống hiến cho cuộc đời niềm tin yêu và hạnh phúc.

Xin chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 80)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 110)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 117)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 131)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 163)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 223)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 209)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 229)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 215)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 256)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 236)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 196)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 154)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 181)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 205)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 288)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 297)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 314)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 354)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 330)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 345)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 596)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 570)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 846)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 443)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 675)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 492)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 470)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 381)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 501)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 456)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 647)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 443)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 846)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 567)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 575)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 948)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 675)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 571)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 861)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 538)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 648)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 624)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 636)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 533)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 706)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1016)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1190)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant