Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chớ Nên Chỉ Tin Một Người

21 Tháng Hai 202317:59(Xem: 1774)
Chớ Nên Chỉ Tin Một Người
Chớ Nên Chỉ Tin Một Người

Thích Nguyên Hùng

Đời Như Tấm Gương Soi

Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội. Trong Kinh Tạp A-hàm, Đức Phật nói rằng, nếu chúng ta chỉ tin vào một người thì sẽ có năm tai hại.

Thứ nhất, khi đặt trọn niềm tin vào một người, kính tin rất mực, rồi thì người ấy hoặc phạm giới, hoặc làm trái luật nghi và bị cộng đồng Tăng lữ từ bỏ, khi đó người gởi trọn niềm tin sẽ nghĩ rằng: “Đây là thầy của ta, được ta kính trọng mà bị chúng Tăng từ bỏ, nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ nhất phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Đây là tai hại không chỉ vì tin vào một người mà còn vì đặt niềm tin không đúng chỗ, cho nên khi người thầy, người cô mà mình tin tưởng vi phạm lỗi lầm thì mình không những tẩy chay người thầy, người cô bấy lâu mình thân cận mà mình còn khinh thường các tăng ni nói chung và còn bỏ luôn chùa, không nghe pháp, quay lưng với Tam bảo. Một khi không nghe pháp, không đi chùa, không thực hành pháp, không tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền thì pháp lành ngày một tổn giảm, người Phật tử này không còn an trụ lâu dài trong chánh pháp nữa. Thật tai hại vô cùng!

Thứ hai, vì chỉ kính tin vào một người nên khi người ấy trái phạm giới luật và bị cộng đồng tăng lữ cử tội “không nhận lỗi”[1] thì người gởi trọn niềm tin liền suy nghĩ: “Đây là thầy ta, được ta kính trọng mà bị chúng Tăng cử tội ‘không nhận lỗi,’ nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ hai phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Khi chưa phải Thánh nhân, ai chẳng phạm lỗi lầm? Phạm lỗi mà biết ăn năn sám hối, biết chấp nhận sửa đổi, đó là hạng người hướng thiện, mạnh mẽ nhất trên đời. Trong trường hợp này, người thầy hoặc sư côPhật tử kính tin có thể mắc phải một lỗi lầm, vụng về nào đó đáng bị khiển trách, thay vì nhận lỗi để sám hối, đương sự lại ‘cứng đầu’, bảo thủ, không chịu chấp nhận, khiến cộng đồng tăng lữ phải cử thêm tội ‘không nhận lỗi.’ Khi người thầy mình tin tưởng bị chúng tăng buộc tội, người Phật tử cảm thấy bị tổn thương, thất vọng, từ đó xa lánh tăng ni, bỏ bê tu học, không siêng năng đi chùa, nghe phápthực hành pháp. Đây là tai hại thứ hai chỉ vì kính tin vào một người.

Thứ ba, nếu vị được kính tin đắp y, ôm bát du hành phương khác, đi hoằng phápnơi khác, đến quốc gia khác… thì người kính tin vị kia sẽ suy nghĩ: “Người được ta kính trọng đã đắp y, ôm bát du hành trong nhân gian thì nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa rồi thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ ba phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Vẫn biết đời sống của người xuất gia thời Đức Phật còn tại thế là không ở một trú xứ nào nhất định. Đức Thế Tôn cùng với chúng tỳ-kheo ở một trú xứ lâu nhất là ba tháng an cư. Sau ba tháng an cư, tất cả đều lên đường đi giáo hóa trong nhân gian. Thế mà, khi nghe tin Đức Thế Tôn không bao nữa sẽ cùng chúng tăng du hành trong nhân gian thì Phật tử Nan-đề đã hụt hẫng: “Bạch Thế Tôn! Hôm nay, tay chân con bủn rủn, đầu óc quay cuồng, những pháp trước đây con được nghe thì nay đều quên mất khi nghe tin Thế Tôn sắp du hành nhân gian. Con chẳng biết khi nào mới được gặp lại Thế Tôn và các tỳ-kheo quen biết” (Kinh Tạp A-hàm, số 858).

Không chỉ Phật tử Nan-đề mà nhiều Phật tửtâm lý như thế! Đó là tâm lý sở hữu, muốn chấp thủ, muốn người thầy, người sư cô là của mình, ở chùa mình, làng mình. Nhưng người xuất gia, sau khi “đã thành tựu Thánh giới, lại học theo hạnh biết đủ, áo vừa đủ che thân, ăn chỉ nhằm nuôi mạng, đi đến đâu đều mang theo y bát, ra đi không luyến nhớ, giống như chim ưng dang rộng đôi cánh bay lượn giữa hư không” (Kinh Trung A-hàm, số 80, kinh Ca-hy-na). Cho nên, nếu hiểu được mục đíchlý tưởng của đời sống người xuất gia, người Phật tử không nên chỉ muốn người thầy là của mình hay làng mình! Nếu vì một lý do nào đó mà người thầy hay người sư cô mình nương tựa đi nơi khác hoằng hóa thì nên hoan hỷ trợ duyên và lấy làm hãnh diện với xứ mạng hoằng pháp lợi sanh của người thầy mình từng nương tựa.

Tai hại thứ tư là, nếu vị được kính tin xả giới hoàn tục thì người kính tin vị kia sẽ suy nghĩ: “Vị ấy là thầy ta, được ta kính trọng, nay đã xả giới và hoàn tục, vậy thì ta còn lý do gì để đi chùa nữa?”

Quả thật, khi một người được kính tin, nương tựa bỗng dưng xả giới, hoàn tục thì quá sốc cho một Phật tử! Song, nếu bình tâm suy nghĩ thì việc một người không tiếp tục đời sống tu tập, xả giới, hoàn tục là điều bình thườnggiới luật cũng không ngăn cản điều đó. Vả chăng, con đường tu tập là đi ngược dòng đời, nên ít người đi và ít người thành công. Chúng ta chỉ nên thương và tiếc cho một người không đi trọn con đường lý tưởng cao thượng mà họ đã chọn.

Trường hợp tai hại thứ năm là khi người được kính tin viên tịch, người kính tin vị này sẽ suy nghĩ: “Vị này là thầy ta, được ta kính trọng, nay đã viên tịch rồi thì ta còn lý do gì để đi chùa nữa? Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không cung kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm và không được an trụ lâu dài trong chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ năm phát sanh do chỉ tin vào một người?” (Kinh Tạp A-hàm, số 837).

Khi tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào Niết-bàn chính Đức Thế Tôn cũng cảm thấy có sự trống vắng, đại chúng đau buồn. Lúc đó, Đức Thế Tôn dạy: “Các thầy chớ vì Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào Niết-bàn mà buồn rầu, khổ não. Ví như cây to, gồm rễ, thân, nhánh, lá, hoa, trái sum suê tươi tốt thì nhánh lớn sẽ gãy trước. Cũng như núi báu lớn thì ngọn nào cao sẽ sụp đổ trước. Cũng vậy, trong đại chúng của Như Lai, hai đại đệ tử là Xá-lợi-phất và Mụckiền-liên sẽ vào Niết-bàn trước. Cho nên, này các Tỳ-kheo! Các thầy chớ buồn rầu, khổ não! Vì không có pháp gì được sanh ra, được hình thành, được tồn tại, là hữu vi, là tan hoại mà không bị thay đổi và hủy diệt? Muốn các pháp hữu vi không bị tan hoại thì điều ấy không thể được! Trước đây Ta đã nói: ‘Mọi vật đáng yêu đều chịu sự chia lìa!’ Chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ rời xa.”

Đức Đại Giác Thế Tôn còn rời xa chúng ta thì ai trên đời không phải chết? Vì người thầy mình nương tựa viên tịch mà mình không đi chùa là một lỗi lầm quá lớn!

Tóm lại, người Phật tử không chỉ nên nương tựa vào một người thầy hay một sư cô nào, cho dù người thầy, người cô đó là ai, ở địa vị nào, mà phải cố gắng “tự làm hòn đảo, tự nương tựa chính mình, hãy lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa chỗ nào khác. Nghĩa là sống quán niệm thân trên thân, tinh cần nỗ lực, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu ở thế gian; cũng vậy, sống quán niệm thân trên ngoại thân, nội ngoại thân; cho đến quán niệm thọ, tâm và pháp trên pháp, tinh cần nỗ lực, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu ở thế gian. Đây gọi là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa nơi chính mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa chỗ nào khác” (Kinh Tạp A-hàm, số 679).

Đi chùa mà chỉ vì kính tin một người thầy, chỉ vì người thầy đó thôi, ngoài ra không còn biết, không cần biết đến thầy nào khác, không thân cận học hỏi thầy nào khác, thậm chí không xem thầy khác có giá trị gì với mình là một lỗi lầm to lớn của người Phật tử. Năm trường hợpĐức Phật nêu trên chỉ là con số tượng trưng. Có thể còn nhiều trường hợp tai hại hơn nữa khi chỉ kính tin và nương tựa vào một người, nhất là khi người được nương tựa có địa vị, có học vị, có chùa to phật lớn. Bởi vì tin vào người thầy như thế rồi cảm thấy như mình cũng được thơm lây, thấy mình hãnh diện… mà quên mất mục đích của người Phật tử khi thân cận bậc thiện sĩ là để được nghe phápthực hành pháplỗi lầm tai hại mà người Phật tử cần phải ghi nhớ vậy!



[1] Nguyên tác: Bất kiến (不見). Tỳ-kheo phạm tội nhưng ngoan cố không tự thừa nhận, không chịu nhận lỗi, Tăng tác pháp yết-ma bất kiến tội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 724)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 830)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 784)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 748)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 758)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 758)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 659)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 919)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1238)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1408)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1142)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1463)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 929)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 834)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 938)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 957)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 929)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 957)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1080)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 905)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1048)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1049)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 971)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1009)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 925)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1080)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1027)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 952)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1056)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 911)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1014)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 952)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1201)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 984)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1072)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1229)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1667)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1236)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1310)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1180)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1035)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 996)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1027)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 873)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1546)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1425)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1401)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1342)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1444)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant