Phật Giáo Bị Thách Thức Bởi Văn Hóa Đương Đại?
John Peacocke [1]
Vô Minh
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến chúng ta cho dù khoảng cách hai thiên niên kỷ rưỡi và những khác biệt văn hóa to lớn. Mặc dù có thể còn quá sớm để nói về một hình thức Phật giáo 'phương Tây' rõ ràng, nhưng chắc chắn rằng bất kỳ hình thức Phật giáo mới xuất hiện nào như vậy sẽ phải giải quyết những vấn đề đặc biệt của thế giớiđương đại. Sự thành công hay thất bại của một hình thức mới xuất hiện như vậy sẽ được đo lường dựa trên khả năng của 'truyền thống' này trong việc tham gia, cả ở cấp độ cá nhân và xã hội, với những vấn đề đang bủa vây con người trong thế giới hiện đại. Đặc biệt, Phật giáo 'phương Tây' sẽ buộc phải giải quyết những câu hỏi mà có lẽ, đối với các hình thức truyền thống và dựa trên tu viện, vẫn nằm ngoài phạm vi của nó. Hơn nữa, nếu việc thực hành Phật giáo không chỉ dừng lại ở một số hiện tượng sùng bái bị gạt ra ngoài lề trong thế giới phương Tây, thì nó sẽ cần phải can dự một cách nghiêm túc vào một loạt các vấn đề như kinh tế, chính trị, đạo đức môi trường và xã hội. Việc hình thức Phật giáo mới và khác biệt này được mong đợi sẽ có câu trả lời cho những câu hỏi này không thực sự là vấn đề ở đây; đúng hơn, khả năng của hiện tượng tôn giáo mới này ở giai đoạn này là chỉ đơn giản tham giavào các câu hỏi quan trọng.
Không còn nghi ngờ gì nữa, quan điểm tôn giáo của Phật giáo đưa ra một thách thức độc đáo đối với văn hóa đương đại nhưng bản thân nó cũng bị thách thức theo những cách mà trong lịch sửchưa từng xảy ra. Một cách mà lý thuyết và thực hành Phật giáo có thể bị thách thức trong thế giớiđương đại là thông qua sự thống trị của kinh tế và sự thay đổi thất thường của thị trường toàn cầu. Ngay cả trong thuật ngữ lịch sử phương Tây, sự tăng trưởng và thống trị của thương mại và kinh tế là một hiện tượng tương đối mới và có thể bắt nguồn từ sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 18.
Thoạt nhìn, phản ứng truyền thống của Phật giáo với sự nhấn mạnh vào việc bác bỏ nhục dục và vật chất hầu như không đưa ra được giải pháp nào. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản hung hãn và tràn lan đó không phải là không bị chỉ trích trong thế giới phương Tây, được chứng kiến bằng các cuộc biểu tình ngày càng bạo lực ở các thành phố lớn cả ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Những người biểu tìnhchống lại các tổ chức như Tổ chức Thương mại Thế giới đã bị cả chính phủ và giới truyền thông phỉ báng là một số kẻ mất trí. Tuy nhiên, nhiều người biểu tình có thể được xem đơn giản là những cá nhân đặt câu hỏi về sự phát triển của một chủ nghĩa tư bản quyết đoán và không bị cản trở.
Điều dường như gây ra sự phẫn nộ của các chính trị gia và giới truyền thông đối với những người biểu tình như vậy không phải là thiệt hại về tài sản - mà trong một số trường hợp là khá đáng kể - mà là cuộc tấn công trực tiếp vào những thần thoại vĩ đại của thế giới phương Tây; cụ thể là, sự giàu có về kinh tế gia tăng sẽ dẫn đến hạnh phúc và thuyết quyết định kinh tế đó rõ ràng là hợp lý. Những điều này cùng với nhiều nguyên lý đáng nghi ngờ khác đại diện cho lý do căn bản đằng sau phần lớn chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Tuy nhiên, việc phản đối những nguyên lý này không phải là mới.
Đức Phật sống vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Ngài có thể được mô tả là người đầu tiên trong số những người “từ bỏ” hoàng gia, đã chứng minh rõ ràng sự phản đối như vậy. Về nhiều mặt, thế giới của thế kỷ thứ năm trước Công nguyên Ấn Độ hoàn toàn khác biệt với thế giới đương đại, tuy nhiên nhiều giá trị làm nền tảng cho xã hội Ấn Độ trong thời kỳ đó lại không quá khác biệt so với thế giới đương đại. Theo những truyền thuyết và thần thoại nổi tiếng xung quanh cuộc đờicủa Đức Phật, ngài sinh ra không phải là một nông dân thất học mà là một người xuất thân cao quý, người được khuyến khích trau dồi sở thích về những giá trị thống trị xã hội của mình; cụ thể là thành công vật chất và nhục dục. Đức Phật, giống như đại đa số người ở thế giới phương Tây, được khuyến khích trau dồi sở thích về vật chất và thú vui nhục dục như một phương tiện để tìm kiếm hoặc đạt được 'hạnh phúc'.
Địa vị, thành công vật chất và sự đam mê nhục dục là những giá trị gần như không thể tránh khỏilàm nền tảng cho loại lý thuyết kinh tế được giảng dạy trong các trường kinh doanh đương đại ở thế giới phương Tây. Những giá trị như vậy được coi là điều kiện tiên quyết cho “hạnh phúc” mà văn hóa phương Tây mang lại. Do đó, không phải ngẫu nhiên, từ quan điểm Phật giáo, đau khổ(dukkha) là một hệ quả không có gì đáng ngạc nhiên của thời hiện đại và những hình thức sống đi kèm với nó.
Tuy nhiên, chính những giá trị này mà Đức Phật đã cố tình bác bỏ trong hành trình tìm kiếm sự giải thoát khỏi sự bất mãn và đau khổ (dukkha) dường như đang thống trị và hạn chế cuộc sống con người. Khi bác bỏ một cách có ý thức các giá trị của xã hội như một phương tiện để đạt được hạnh phúc, Đức Phật đã xác định nguyên nhân dẫn đến sự bất mãn của loài người là do một 'cơn khát' (tanha) hay thèm muốn không thể nguôi ngoai. Một biểu hiện của sự khao khát này là nỗ lực trốn tránh các vấn đề hiện hữu của tuổi già, bệnh tật và cái chết bằng cách tích lũy tiền bạc và của cảivật chất. Tuy nhiên, như Đức Phật đã nhận định, những vấn đề này chỉ có thể trốn tránh được một thời gian và cuối cùng chúng sẽ ập đến với mỗi cá nhân - dù giàu có hay thành công đến đâu.
Do đó, trong thế giới đương đại, sự giàu có và dư thừa mà các cá nhân cảm nhận xung quanh họ có thể khiến họ mù quáng trước những thực tế hiện sinh đang củng cố và làm xói mòn sự tồn tạidường như an toàn của họ. Theo quan điểm của vũ trụ học truyền thống Ấn Độ, người phương Tây, phần lớn, sống cuộc sống của các vị thần (devas) và cũng giống như các vị thần, họ không có mong muốn hay động cơ để xem xét và đặt câu hỏi về sự tồn tại của các vị thần. Tất nhiên, doanh nghiệp kinh doanh quốc tế sẽ không chấp nhận điều này; nó có lợi ích đặc biệt trong việc phổ biếnnhững công thức cũ về “hạnh phúc”. Tuy nhiên, như chúng ta hiện đang bắt đầu nhận ra, quy mô to lớn của kinh doanh thương mại – trên quy mô toàn cầu hiện đang được thể hiện – có một mặt tối.
Tuy nhiên, Đức Phật đã vạch ra con đường trí tuệ và từ bi, khởi đầu một con đường (magga, đạo) có thể được coi là một 'cuộc cách mạng hòa bình'. Đức Phật trong suốt sự nghiệp giảng dạy lâu dàicủa mình - gần 45 năm - đã nhấn mạnh việc trau dồi đạo đức và giảm bớt những mối quan tâm tự kỷ là điều cần thiết cho con đường 'tỉnh thức' của Ngài. Sự tức giận, cho dù 'chính đáng' đến đâu, như Ngài đã dạy - và trong điều này có một thông điệp dành cho những người biểu tình đương thời - không bao giờ được biện minh vì nó chỉ đơn giản dẫn đến việc duy trì lòng hận thù trong thế giới.
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi.
Ai ôm hiềm hận ấy,
Hận thù không thể nguôi.”
(Pháp Cú, kệ 3)
Tuy nhiên, có thể coi Đức Phật là người có một thông điệp rộng lớn hơn nhiều dành cho những người ủng hộ và tán thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu không kềm chế hiện nay; điều quan trọng nhất đối với con đường này là việc kiểm tra tham, sân và si của chính mình. Trọng tâm thông điệpcủa Đức Phật là giảm bớt niềm tin rằng của cải vật chất có thể ngang bằng với hạnh phúc. Khi thành lập Tăng đoàn, Đức Phật đã dạy họ phải ‘bằng lòng với cái ít’ (thiểu dục).
Các nhà sư và trong một số trường hợp là các nữ tu, cho đến ngày nay vẫn được coi là trung tâmcủa các xã hội Phật giáo truyền thống. Những nhân vật như vậy trong các xã hội truyền thống là 'những người từ bỏ'; nghĩa là họ đã từ bỏ xã hội và lối sống gia đình để theo đuổi sự nghiệp tu trì. Tuy nhiên, trong quá trình truyền bá Phật giáo vào xã hội phương Tây, chủ nghĩa tu viện dường như không đóng vai trò chủ đạo như nó có trong các nền văn hóa Phật giáo truyền thống. Điều này có nghĩa là những hình thức thực hành mới sẽ phải phát triển đối với một Tăng đoàn phần lớn không xuất gia. Tuy nhiên, câu nói của Đức Phật về việc học “bằng lòng với cái ít” có lẽ có một số tiếng vang đối với chúng ta trong thế giới phương Tây.
Trong khi phần lớn các hành giả Phật giáo phương Tây sẽ không bao giờ khoác áo tu sĩ, câu hỏi liệu chúng ta có thể “bằng lòng với cái ít” hay không đang đối mặt với chúng ta ngày càng cấp bách. Liệu loài người phương Tây có thể học cách tìm kiếm hạnh phúc và hòa bình ở những thứ khác ngoài của cải vật chất do các công ty kinh doanh cung cấp không? Đây là một câu hỏi thực tế và cấp bách đối với thế giới phương Tây và tất cả những ai sống trong thế giới đó. Tuy nhiên, cuộc đờicủa Đức Phật, trong các truyền thống khác nhau của Phật giáo, có thể được coi là đại diện cho một mô hình về ý nghĩa của việc sống một cuộc sống hoàn toàn thay thế thông qua việc xuất gia.
Tuy nhiên, Phật giáo mới nổi của thế giới phương Tây lại hoàn toàn bác bỏ kinh tế và thương mạinên đứng trước nguy cơ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vì vậy, câu hỏi đặt ra đối với hình thức Phật giáonày, nếu nó không bị đẩy ra bên lề xã hội, là liệu các giá trị Phật giáo có thể tìm được một chỗ đứng trong quyền bá chủ hùng mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây hay không. Nếu muốn làm như vậy, và các Phật tử phương Tây muốn tham gia vào thế giới thương mại, thì cần phải tìm cách thỏa thuận với quyền bá chủ đó mà không từ bỏ các giá trị cốt lõi của Phật giáo. Tất nhiên, điều này có nghĩa là phải xem xét kỹ lưỡng việc bán những giấc mơ mà phương Tây đã đam mê rao từ lâu và đặt câu hỏi sâu sắc về câu thần chú của phương Tây rằng 'sự giàu có về kinh tế dẫn đến hạnh phúc'.
Những người theo đạo Phật ở thế giới phương Tây có sẵn những công cụ nào để tiến hành một cuộc tìm hiểu tự do về các phong tục tập quán của xã hội đương đại và vị trí của họ trong xã hộiđó? Các ứng cử viên rõ ràng bao gồm sự phát triển giới luật hay đạo đức, như được nêu trong Bát chánh đạo dưới các hình tượng Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng, cùng với chánh niệm(sati), đóng vai trò hỗ trợ cho sự phát triển của những đức tính này. Điều này có ý nghĩa gì trong thực tế? Ví dụ, nó sẽ yêu cầu các giao dịch trong thị trường thương mại diễn ra mà không cần nói dối, ngay cả theo những cách tinh vi nhất.
Bản thân điều này đương nhiên là một thách thức lớn vì nói dối đang ở mức độ bệnh lý, không chỉ trong thế giới doanh nghiệp và tài chính mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng. Từ các doanh nhân đến các chính trị gia, xã hội chúng ta đang có một tình trạng bất ổn thực sự liên quan đến “sự thật”. Nói dối và đạo đức giả là đặc hữu của xã hội chúng ta và có lẽ đúng như một triết giađã đề xuất, chúng ta không có khả năng "chịu đựng quá nhiều sự thật". Chứng mất trí nhớ đạo đứchay 'sự quên lãng' đối với sự thật này được phản ánh trong mọi tầng lớp trong xã hội chúng ta; cả trong các cá nhân và những người nắm giữ chức vụ công, việc 'nói thật' có giá trị rất thấp. Vì vậy, không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của nhiệm vụ mà một “văn hóa” Phật giáo đang nổi lên ở phương Tây phải đối mặt vì nó phải đối mặt với một tập thể văn hóa dối trá áp đảo.
Ngoài ra, tư tưởng và thực hành Phật giáo sẽ cần phải tiếp xúc với nhiều khía cạnh đa dạng của văn hóa phương Tây. Một số cuộc đối thoại này đang bắt đầu diễn ra với sự tham gia của các diễn ngôn về tâm lý học, tâm lý trị liệu, triết học và khoa học. Tuy nhiên, ngay cả trong những bộ môn này, tiếng nói phàn nàn của Phật giáo cũng bị đẩy ra ngoài lề. Ví dụ, 'triết học' Phật giáo sẽ không được đề cập đến trong ngành triết học mà sẽ được tìm thấy trong các khoa Nghiên cứu Tôn giáotrong hệ thống đại học. Điều tương tự cũng có thể nói về lý thuyết tâm lý Phật giáo. Tuy nhiên, đây mới là những ngày đầu và điều quan trọng là cuộc đối thoại đã bắt đầu. Việc đây chỉ là những khởi đầu mang tính thăm dò bản thân nó không phải là một vấn đề. Tuy nhiên, như đã đề cập, một cuộc đối thoại thực sự có tính phê phán với văn hóa phương Tây sẽ dẫn đến sự chuyển đổi cả những mối quan tâm truyền thống của Phật giáo và có lẽ cuối cùng là sự chuyển đổi của chính văn hóaphương Tây.
Ghi chú cùa người dịch
[1] Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism), Tập. 3, số 1, 2002
Tác giả: John Peacocke, Đại học Bristol & Sharpham, Vương quốc Anh
- Tag :
- John Peacocke
- ,
- vô minh